Để âm thanh diệu kỳ từ những chiếc cồng, chiếc chiêng
được mãi ngân vang giữa đại ngàn xanh thẳm này, cần có đôi bàn tay khéo
léo, tài hoa của người đánh chiêng. Nhưng để giữ được những âm thanh ấy
mãi trong vắt, vang vọng lại phải qua tay những nghệ nhân chuyên chỉnh
chiêng. Họ được biết đến như những người dịch thông điệp, dịch ước vọng
của dân bản trong những lễ hội tới “Giàng”.
“Cân” âm thanh cho lọt tai “Giàng”
Còn nhớ những tháng ngày này khi khí trời đậm sắc xuân sang, trong
khuôn viên Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tổ chức lễ hội cồng chiêng
Tây Nguyên hội tụ không chỉ những nghệ sĩ, nghệ nhân nhưng tay “cơ” đánh
cồng, chiêng lão luyện mã còn có mặt cả những nghệ nhân với bàn tay
vàng trong việc chỉnh tiếng cồng, tiếng chiêng.
Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên. |
Quả
thật được tận mắt chứng kiến những thao tác chỉnh chiêng với những dụng
cụ chỉnh tiếng chiêng, tiếng cồng hết đỗi đơn giản, thô sơ nhưng vô
cùng hiệu quả mới thấy để đạt được sự công nhận đến mốc nghệ nhân với
việc chỉnh chiêng không đơn giản chút nào. Nghệ nhân chỉnh chiêng Nay
Phai nói rằng: “Để chỉnh chiêng giỏi cần phải có tai nghe âm thanh thật
chuẩn và đôi tay cầm búa thật khéo”. Bởi âm thanh chuẩn chính là cái mà
những nghệ nhân dày công gò đi gò lại để tìm được; và đôi bàn tay phải
khéo để biết cách gõ như thế nào mới tìm được âm thanh đúng mà không làm
chiêng bị hư. Già Ama Pur, Đội trưởng Đội chiêng buôn Kô Siêr (phường
Tân Lập, TP. Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk) giải thích: “Người chỉnh chiêng
phải biết nghe chiêng và nhận ra chiếc nào bị lạc nên cái tai phải
thính.
Khó là ở chỗ người chỉnh chiêng vừa phải có thâm niên chơi cồng
chiêng vừa không được quá lớn tuổi, vì khi già, cái tai không còn nghe
rõ từng âm nữa, cái tay cũng run rẩy nên chỉnh sẽ không chuẩn xác”. Cũng
theo lời một nghệ nhân lão luyện trong nghề chỉnh chiêng thì trước khi
đem bộ chiêng vào tham dự bất kỳ lễ hội nào đó từ lễ lúa mới, lễ đầu
năm, lễ hội cầu mùa, lễ đẻ đất, đẻ nước… đều phải xem qua từng chiếc
chiêng: “Nghe ưng cái bụng thì chiêng mới vang lên đúng những âm thanh
hùng vĩ, ầm ầm như thác nước của bài Eana Dray (Dòng thác - PV), tiếng
rầm rập của bài Pliêr (Mưa đá) hay vui tươi, réo rắt của bài Kong-dar
(Chong chóng quay)... Già làng Y Lon Niê dùng tiếng Kinh lơ lớ kiên nhẫn
giới thiệu với chúng tôi công việc chỉnh chiêng: “Chiêng để lâu ngày
không đánh hoặc đánh quá nhiều, tiếng nghe sẽ bị phô, đánh không ai nghe
được, mình phải chỉnh lại thôi”.
Theo các nghệ nhân đánh chiêng, trong dàn chiêng chỉ cần một chiếc
bị lạc âm là những bài chiêng đánh ra “không thấu được đến các Giàng
(các thần trời - PV)”. “Chỉnh không giỏi, chiêng bị nứt, tệ hơn nữa là
âm bị lạc nặng hơn, không sửa được, coi như cái hồn chiêng bay mất”- già
Y Lon Niê cảnh báo. Ban đầu, tôi cứ tưởng những dụng cụ chỉnh tiếng
chiêng, tiếng cồng phải là những trang thiết bị công nghệ kỹ thuật cao,
song thật bất ngờ, dưới bàn tay của các nghệ nhân chúng chỉ là những vật
dụng hết đỗi thô sơ và đa dạng. Có nghệ nhân dùng bút sắt nhỏ, có người
chỉ dùng một búa gỗ ngắn và một thanh gỗ tròn, dài, nâu bóng… nhưng tất
cả đều giống nhau ở công đoạn “dò” âm. Các nghệ nhân chỉnh chiêng trước
khi cầm búa “cân” lại tiếng chiêng để gọi hồn chiêng về phải tự mình
đánh vài bản nhạc chiêng để từ đó đọc được chiếc chiêng, cồng đó “hư” âm
chỗ nào, âm độ tiếng chiêng “mỏng”, “dẹt” ra sao để còn đánh dấu vào
chỗ đó để “cân”. Sau khi đánh dấu chỗ phát ra âm chiêng bị “lỗi” bằng
điểm mắt, các nghệ nhân cầm dụng cụ và bắt đầu chỉnh tiếng.
Già
Nay Phai cho biết: “Chỉnh cho tiếng cao lên thì phải úp chiêng xuống,
chỉnh cho tiếng trầm xuống thì phải ngửa chiêng lên”, rồi dùng búa gõ từ
nhẹ đến mạnh, từ ngoài vào trong để “kéo” tiếng chiêng theo ý muốn. Già
không gõ đủ số lần như dự định mà luôn chừa lại một lần để “làm thuốc”.
Sau khi gõ hết một vòng chiêng, nếu âm thanh vẫn chưa chuẩn thì nghệ
nhân mới dùng lần gõ dự phòng này để chỉnh lần cuối. Cái hay, cái khó
của nghệ thuật chỉnh chiêng là nghệ nhân biết chỗ nào trên chiếc chiêng
cần phải chỉnh và phải gõ mấy lần để gọi đúng hồn chiêng. Chiêng sau khi
chỉnh xong phải được “nghiệm thu”, tức mời người biết nghe - thường là
các già làng đến thẩm định. Hễ các già nói đã đúng tiếng chiêng thì
chiêng đã hết “bệnh”, nếu lắc đầu là chiêng chưa “khỏe”, phải chỉnh
tiếp.
Nghề hiếm thầy, ít thợ
Với cộng đồng người thiểu số Tây Nguyên, chỉnh chiêng là nghề có vị
trí rất quan trọng trong đời sống xã hội. Theo già Ama Pur, hiện ở Nam
Tây Nguyên, số lượng nghệ nhân chỉnh chiêng còn rất ít. Hầu như các lớp
truyền dạy cồng chiêng này chỉ là dạy truyền nghệ thuật biểu diễn cồng
chiêng chứ chưa có lớp truyền dạy nghề chỉnh chiêng. Trong thực tế, nghệ
nhân chỉnh chiêng là người dân tộc thiểu số rất ít, có nơi chỉ có một
nghệ nhân biết chỉnh chiêng “bao quát” đến vài buôn làng. Theo lời kể
của già Y Lon Niê ngày trước, cả vùng xã Lát của huyện Lạc Dương chỉ có
nghệ nhân Păngting Kar được xem là người chỉnh chiêng chuẩn nhất trong
số vài nghệ nhân chỉnh chiêng (đếm trên đầu ngón tay) trong cả vùng.
Ngày nghệ nhân Păngting Kar mất, cả cộng đồng người thiểu số dưới chân
núi Langbian này mất đi “một đôi tai thính và một đôi tay khéo”.
Nghệ nhân K’Chung ở Tân Văn, huyện Lâm Hà tỏ ra tiếc nuối: “Giờ thì
cả mấy làng mới có được một người biết “nghe được cái tiếng của Giàng”
để “lên dây cho chiêng”. Còn lại, hầu như là những người chỉ biết đánh
chiêng chứ không biết chỉnh chiêng. Mà, đánh chiêng thì học là biết
đánh. Còn chỉnh chiêng thì dẫu có học cũng chưa hẳn là biết chỉnh cho
đúng với cái âm thanh của Giàng!”.
TS. Nguyễn Thị Kim Vân - Trưởng phòng Nghiệp vụ văn hóa, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Gia Lai cho biết: Trong không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, người biết chỉnh chiêng là một vốn quý, cần được trân
trọng và phát triển rộng khắp. Trên địa bàn Gia Lai hiện nay, số nghệ
nhân có khả năng chỉnh chiêng chỉ khoảng vài chục người. Số nghệ nhân
tạc tượng cũng ngày càng hiếm hoi, đặc biệt là những nghệ nhân thật sự
giỏi và có khả năng truyền nghề không còn nhiều, thực tế chỉ có khoảng 3
- 4 nghệ nhân cho mỗi loại hình. Bởi vậy có thể khẳng định, 34 học viên
của lớp truyền dạy chỉnh chiêng và tạc tượng gỗ dân gian Ba Na, Jrai
này chính là những “hạt giống đỏ”, khi trở về địa phương sẽ góp phần
không nhỏ trong việc gìn giữ và phát huy những di sản văn hóa truyền
thống của dân tộc như mạch nguồn chảy mãi.
Tuệ Minh (SKĐS)