Theo GS Hà Văn Phùng, thạp Hợp Minh đã khiến Yên Bái trở thành một cái tên gắn với văn hóa Đông Sơn sáng giá.
Trong một bài viết trên Tạp chí Khảo cổ học, GS Hà Văn
Phùng, nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học đã nói về thời điểm tìm thấy
thạp Hợp Minh - năm 1995. Khi đó, niềm tự hào về văn hóa Đông Sơn của
Yên Bái chỉ là Đào Thịnh (thạp đồng Đào Thịnh là bảo vật quốc gia đợt 1 -
NV). Niềm tự hào Đào Thịnh đó cũng đã cách xa hàng chục năm,
kể từ khi nó được tìm thấy tại H.Trấn Yên, Yên Bái. “35 năm sau, cũng ở
H.Trấn Yên, cách khu di tích Đào Thịnh không xa, người ta lại phát hiện
một di tích mới. Đó là di tích Hợp Minh. Dân quân xã Hợp Minh đã tìm
thấy di tích này khi đào công sự. Nhờ đó thạp đồng nguyên vẹn đã được
tìm thấy”, GS Phùng nhớ lại.
PGS-TS Tống Trung Tín khảo sát thạp Hợp Minh - Ảnh: tư liệu báo Yên Bái
|
Khi đó, theo các nhà khảo cổ, thạp được tìm thấy nguyên vẹn, trong đó
có một bộ hài cốt; cũng có một số hiện vật như rìu, chuông, dao găm,
khuyên tai và một số mảnh gốm vụn. Phía trên, bên ngoài thạp đồng còn
tìm thấy một âu đồng ba chân đã bị vỡ làm nhiều mảnh.
Sự nguyên vẹn được giữ gìn
Nghiên cứu của GS Phùng cho thấy thạp đồng Hợp Minh còn nguyên vẹn có
nắp đậy. “Đây là một trong số những thạp được giữ gìn tốt nhất từ trước
đến nay. Tuy kích thước của thạp không lớn bằng Đào Thịnh nhưng lớn hơn
thạp Vạn Thắng, Xuân Lạp. Điều đáng chú ý là hoa văn trang trí trên
thạp rất sống động”, GS Phùng viết.
Cũng theo ông Phùng, các mô típ được kết hợp một cách nhuần nhuyễn,
hài hòa với nhiều chủ để sinh động, vừa cách điệu vừa hiện thực. Hoa văn
trên thạp Hợp Minh không chỉ thể hiện các mô típ truyền thống như trên
các thạp đồng mà còn có nhiều mô típ miêu tả cảnh sinh hoạt như trên
nhóm trống đồng Heger I (dựa theo phân loại của nhà khảo cổ học người Áo
Franz Heger).
Về kỹ thuật, thạp đồng Hợp Minh nặng 13,5 kg, đúc bằng khuôn hai
mang. Đường giáp khuôn chia thạp thành hai nửa bằng nhau. Đó cũng là
ranh giới phân chia các mảng hoa văn, không làm ảnh hưởng đến đường nét
của các đồ án.
Thạp cũng có đôi quai hình chữ U lộn ngược đối xứng nhau qua thân.
Đôi quai này được gắn ở miệng và cao vượt hẳn lên trên miệng. Ở lòng mỗi
quai hình chữ U ta thấy người xưa còn gắn thêm một quai hình nui thuyền
nhỏ. Sát với mép của nắp thạp cũng vậy. Khi nắp thạp đóng lại, chúng
gắn khít với nhau.
Thạp cũng còn có cảnh 2 người hóa trang đứng đối diện, chân trước
chân sau, tóc dài, chày đâm xuống một vật hình chiếc cối. Còn có cả cảnh
người đang làm động tác như sàng sảy.
Tượng tròn gắn trên thạp Hợp Minh thuộc loại chim nước. Nó khác với
tượng hổ báo trên thạp Vạn Thắng, tượng vật trên thạp Xuân Lộc.
Cấu trúc của tia mặt trời trên thạp Hợp Minh giống hệt các tia mặt
trời trên trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa. Một số mảng hoa văn trên thân
thạp được lặp lại các họa tiết thường thấy trên các thạp nhỏ. Đó là
đường tròn đồng tâm có tiếp tuyến, răng cưa, vạch ngắn song song, chữ S
gãy khúc.
Thạp cũng có mảng hình chim khắc chìm mô phỏng một loại chim nước như
loại tượng chim gắn trên nắp thạp song đã cách điệu. Hình dáng của loại
chim này ta từng thấy khắc trên thạp Vạn Thắng 1. “Vành 30 là những con
thú tạm gọi là hươu nai. Tuy nhiên, nó lại không giống một loại hươu
nai nào trên nhóm trống đồng Ngọc Lũ. Đây cũng là một đề tài cần sự giúp
sức của các nhà động vật học để xác định tên gọi của chúng trong quá
khứ cũng như trong hiện tại”, GS Phùng đánh giá.
Nghiên cứu những hoa văn khắc trên thạp, cho thấy chủ nhân của những
hoa văn này cũng chính là chủ nhân những bức tranh trên trống đồng Ngọc
Lũ. Do vậy, thạp Hợp Minh cùng với trống Ngọc Lũ, thạp Đào Thịnh cũng
cùng niên đại.
Theo PGS-TS Trịnh Sinh, Viện Khảo cổ học phân tích thành phần hợp kim
thạp đồng Hợp Minh cho thấy thành phần chủ yếu là đồng, thiếc, chì. Đó
là thành phần cơ bản và ổn định của các di vật đồng văn hóa Đông Sơn ở
Việt Nam.
Không chỉ để dùng làm đồ đựng
Tư liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Quang cho biết người trực tiếp
mở nắp thạp khi mới tìm thấy là anh Hà Xuân Trùy. Anh Trùy nhớ lại, khi
ấy, mép thạp thấy một lớp màng màu đen phủ phía trên. Bóc đi lớp mảng
màu đen này xuất hiện một lớp mền bằng vỏ một thực vật màu xám. Dưới lớp
mền là bộ xương đặt ở tư thế ngồi, lưng tựa vào thành thạp, mặt nhìn ra
hướng sông. Bên cạnh đó có 1 con dao găm, 1 quả chuông nhỏ, 1 khuyên
tai đá 4 mấu.
PGS-TS Nguyễn Lân Cường, Viện Khảo cổ cho biết bộ xương đã được thu
thập cẩn thận. Các mảnh sọ, xương chủ, xương sườn, đốt sống đã được gắn
chắp và đo chỉ số. Qua giám định sơ bộ thấy đây là hài cốt của một bé
gái chừng 4 - 4 tuổi rưỡi.
“Phát hiện di tích Hợp Minh khẳng định chắc chắn một trong những công
dụng của thạp là được dùng để làm quan tài chôn người chết, ngoài việc
dùng làm đồ đựng, vật tùy táng”, GS Phùng viết.
Trước đó, văn hóa Đông Sơn chỉ có sọ người trong thạp ở Thiệu Dương,
hoặc than trong thạp Vạn Thắng, Đào Thịnh. Từ đó, các nhà khoa học cũng
chỉ dừng lại ở giả thuyết về việc dùng thạp để chôn người đã cải táng
hay hỏa thiêu. “Bộ cốt trẻ em còn nguyên vẹn chứng tỏ thạp đồng đã có
lúc dùng làm quan tài để chôn người chết, nhưng không phải phổ biến.
Điều đó chỉ có được với những người quyền uy giàu có. Còn hầu hết những
thạp dùng trong mộ cùng những đồ tùy táng khác đều thuộc loại nhỏ, hoa
văn trang trí đơn giản và hầu hết là đồ minh khí”, GS Phùng khẳng định.
“Thạp đồng Hợp Minh một trong những thạp lớn nhất, trang
trí hoàn mỹ nhất của văn hóa Đông Sơn. Yên Bái đã lấy hình mặt thạp đồng
làm biểu tượng của truyền hình tỉnh. Nó cũng là biểu tượng, biểu trưng
tự hào của tỉnh” - PGS-TS Bùi Văn Liêm, Phó viện trưởng Viện Khảo cổ.
|
Theo: thanhnienonline