Là người Việt Nam,
chắc chắn bạn phải biết đến những di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta
là đại diện của nhân loại dưới đây.
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
Ví, Giặm là hai lối hát dân ca không
nhạc đệm được cộng đồng người Nghệ Tĩnh sáng tạo ra từ hàng trăm năm
nay. Ví, Giặm được thực hành trong lao động và đời sống thường nhật: lúc
ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa. Vì vậy, các
lối hát cũng được gọi tên theo các hoạt động như Ví phường vải, Ví đò
đưa, Ví phường nón, Giặm ru, Giặm kể, Giặm khuyên, v.v.
Ví, Giặm có đặc tính địa phương về thang
điệu, điệu thức, tiết tấu, giai điệu và giọng hát. Các kỹ năng hát đúng
tiết tấu, cao độ, trường độ, luyến láy chủ yếu được trao truyền giữa
các thế hệ bằng truyền khẩu, trực tiếp từ các nghệ nhân, đảm bảo thể
hiện được giọng hát, ngữ điệu của phương ngữ Nghệ Tĩnh. Ví, Giặm được
diễn xướng theo ba hình thức: hát lẻ, hát đối, hát cuộc. Mỗi cuộc hát
thường có ba chặng: hát dạo, hát đối và hát xe kết, nổi bật nhất là hát
giao duyên. Ca từ bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát, lục bát biến
thể (hát Ví), 5 chữ (hát Giặm), cô đọng, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ
hát. Hát Ví có âm điệu tự do phụ thuộc vào lời ca, vào bối cảnh và tâm
tính của người hát, âm vực không quá một quãng 8. Hát Giặm có tiết tấu
rõ ràng, có phách mạnh, phách nhẹ, nhịp 3/4 và 6/8. Hai lối hát này luôn
được hát xen kẽ cùng nhau.
Ca từ
của Dân ca Ví, Giặm có nội dung đa dạng, miêu tả cuộc sống, phản ánh
tập quán xã hội, lịch sử, tình yêu quê hương, đất nước, con người, tình
yêu đôi lứa. Nhiều bài hát mang tính giáo dục sâu sắc: kính trọng cha
mẹ, chung thủy, nghĩa tình, trung thực, góp phần gìn giữ các tập tục,
truyền thống tốt đẹp trong ứng xử xã hội ở làng xã.
Dân ca Ví, Giặm được thực hành rộng khắp
trong cộng đồng người Việt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc Bắc
Trung Bộ Việt Nam. Theo kết quả kiểm kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam (năm 2013), có 260 làng trong đó có 168 làng ở tỉnh Nghệ An và 92
làng ở tỉnh Hà Tĩnh có người thực hành Dân ca Ví, Giặm. Trung tâm của di
sản Ví, Giặm ở các làng nằm hai bên bờ sông Lam và sông La như làng Kim
Liên, Bồi Sơn (Nghệ An), Thạch Việt, Trường Lưu (Hà Tĩnh). Dân ca Ví,
Giặm chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần của người
Nghệ Tĩnh nên rất phổ biến trong đời sống, trong các cuộc vui, lễ hội,
liên hoan, giao lưu giữa các nhóm cộng đồng, và còn được khai thác thành
các trình diễn nghệ thuật trên sân khấu. Người Nghệ Tĩnh hát Ví, Giặm
mọi lúc, mọi nơi, trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt hàng ngày bởi
đó là phương tiện nghệ thuật để biểu đạt tư tưởng, ý nghĩ, giãi bày tâm
trạng, tình cảm. Dân ca Ví, Giặm cũng là nguồn cảm hứng, là chất liệu
cho các tác phẩm âm nhạc, ca khúc, ca kịch đương đại được công chúng yêu
thích.
Năm 2012, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và được UNESCO
vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng
11 năm 2014.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ
Bằng điệu đờn, tiếng hát, loại hình sinh
hoạt văn hóa này gắn kết cộng đồng thông qua thực hành và sáng tạo nghệ
thuật, trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình triều Nguyễn và âm nhạc dân
gian miền Trung, miền Nam, nên vừa có tính bình dân, vừa mang tính bác
học. Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ không ngừng được sáng tạo nhờ tính
“ngẫu hứng”, “biến hóa lòng bản” theo cảm xúc, trên cơ sở của 20 bài gốc
(bài Tổ) và 72 bài nhạc cổ.
Nhạc
cụ tham gia trình diễn gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn bầu, đàn
cò, sáo, tiêu, song loan và hai nhạc cụ của phương Tây là violon và ghi
ta, đã được "cải tiến" - violon được lên dây quãng 4, còn ghita được
khoét phím lõm, để tăng sự nhấn nhá trong điệu đàn.
Người nắm giữ và thực hành Đờn ca tài tử
Nam Bộ gồm: người dạy đàn (còn gọi là Thày đờn), là người có kỹ năng,
kỹ thuật đàn giỏi, thông thạo những bài bản cổ, dạy chơi các nhạc cụ;
người đặt lời (còn gọi là Thày tuồng), là người nắm giữ tri thức và có
khả năng, kinh nghiệm sáng tạo những bài bản mới; người dạy ca (còn gọi
là Thày ca), là người nắm giữ tri thức, thông thạo những bài bản cổ, có
kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca ngâm, ngân, luyến láy; người đờn -
còn gọi là Danh cầm; và, người ca - còn gọi là Danh ca.
Đờn ca tài tử Nam Bộ được truyền dạy
theo hai hình thức: truyền ngón và truyền khẩu - thầy truyền trực tiếp
kỹ thuật đờn, ca cho học trò tại nhóm, câu lạc bộ, hoặc tại nhà thầy,...
Đặc biệt, còn có hình thức truyền dạy trong gia đình, dòng họ và truyền
ngón, truyền khẩu kết hợp với giáo án, bài giảng (nốt ký âm theo kiểu
phương Tây và chữ nhạc Việt Nam) tại một số trường văn hóa nghệ thuật
địa phương và quốc gia.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ đã được
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia năm 2012 và được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại tháng 12 năm 2013.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ
Theo truyền thuyết, Hùng Vương là con
của cha Lạc Long Quân - giống Rồng và mẹ Âu Cơ - giống Tiên, đã có công
dựng lên nhà nước Văn Lang cổ đại, thuộc vùng đất Phú Thọ ngày nay. Đối
với cộng đồng các làng xung quanh đền Hùng, Hùng Vương còn là thần tổ
gắn với nghề nông, dạy dân cày ruộng, cấy lúa, ban linh khí cho đất đai,
nhà cửa, cây trồng, vật nuôi sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu.
Với niềm tin thành kính
này, từ hàng nghìn năm qua, hết thế hệ này qua thế hệ khác, người Việt ở
vùng đất Tổ Phú Thọ, nơi có Đền Hùng linh thiêng và nhân dân trên khắp
mọi miền của đất nước, cùng đông đảo người Việt Nam ở nước ngoài, đã
sáng tạo, thực hành, vun đắp và lưu truyền Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương để thể hiện sự biết ơn với vị thủy tổ, mong Ngài phù hộ cho quốc
thái dân an, vật thịnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.
Biểu hiện tiêu biểu nhất cho Tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương ở
Phú Thọ là lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, được thực hiện vào ngày 10 tháng 3 Âm
lịch hằng năm tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng (quần thể di tích gồm Đền
thượng, Đền Trung, Đền Hạ, Đền Mẫu Âu Cơ, Lăng mộ …) trên núi Nghĩa
Lĩnh, thành phố Việt Trì, đã được Nhà nước xếp hạng Di tích quốc gia đặc
biệt. Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cũng được tổ chức trên khắp mọi miền của
đất nước Việt Nam (Theo thống kê, trên cả nước hiện có 1.417 di tích
có thờ cúng Hùng Vương và các nhân vật thời Vua Hùng).
Vào dịp Giỗ Tổ, nhân dân trong các làng xã có thờ cúng Hùng
Vương ở khu vực Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, trong trang phục lễ hội,
rực rỡ mầu cờ, sắc áo, tổ chức thi kiệu, thi làm lễ vật. Họ chọn ra
chiếc kiệu đẹp nhất và lễ vật ngon nhất, cùng chiêng, trống đồng,
nghi trượng... rước lên đền Hùng dâng cúng, cầu cho quốc thái dân an,
vạn vật sinh sôi. Mỗi làng bầu ra Ban khánh tiết gồm 6 đến 9 người đàn
ông từ 50 tuổi trở lên, có hiểu biết, có tư cách đạo đức để chủ trì,
điều hành nghi lễ tại đình, đền, miếu. Thủ từ - “trưởng tạo lệ”, ở đền
Thượng, đền Trung và đền Hạ thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng được mặc
định là người thuộc 3 làng: Cổ Tích, Trẹo và Vi.
Tham gia thực hành nghi thức còn có đội tế gồm 9 hoặc 11 đàn
ông từ 50 tuổi trở lên, được chọn từ những gia đình hoà thuận, không có
tang, không vi phạm pháp luật
và lệ làng. Nhiệm vụ của họ là dâng hương, rượu, trà, đọc và hóa sớ
trong Lễ dâng hương. Các thành viên còn lại trong làng tự nguyện tham
gia các nghi thức thờ cúng và các hoạt động trình diễn văn hóa dân gian.
Các vị bô lão tham gia đội tế lễ, những vị trung niên, nam hay
nữ đều tham gia chuẩn bị lễ vật như bánh chưng, bánh giầy, bánh mật, tam
sinh (thịt lợn, bò, dê) và hoa thơm, trái ngọt để dâng cúng. Thanh niên
trai tráng tham gia rước kiệu, cầm cờ, quạt, lọng trong đoàn rước đến
nơi thờ cúng. Các hình thức nghệ thuật trình diễn dân gian như hát xoan,
hát ghẹo,… cùng các trò chơi dân gian khác thu hút không chỉ dân làng
mà cả khách thập phương cùng tham gia.
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu
bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Khôi ngô, tuấn tú
nhưng lên 3 mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày cậu chỉ nằm trong
thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi
nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại
xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu
dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên
trời.
Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh
bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân.
Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội
hằng năm với tên gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Đó là một
trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi
thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham gia
đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền. Hội Gióng ở đền Phù Đổng,
xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm - nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ ngày 7 đến
ngày 9 tháng 4 Âm lịch, và Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc
Sơn (nay thuộc Hà Nội) - nơi Thánh hóa diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8
tháng giêng.
Hội Gióng ở đền Sóc diễn ra trong 03 ngày từ
mùng 6 đến mùng 8 tháng giêng hằng năm. Việc chuẩn bị vật tế lễ cũng hết
sức công phu, nhất là việc đan voi (theo truyền thuyết thì đoàn quân
tham gia đánh giặc cùng Thánh Gióng có cả đàn voi chở lương thực đi
theo) và làm giò hoa tre (tượng trưng cho gậy tre của Thánh Gióng sau
khi đánh giặc), nên phải tiến hành từ nhiều tuần lễ trước Lễ hội.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Hàng năm, cứ
mỗi độ xuân về và khi mùa thu tới, người dân 49 làng Quan họ gốc thuộc
xứ Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay), dù ở bất cứ nơi
đâu cũng trở về quê hương để trẩy hội đình, hội chùa, những lễ hội hết
sức độc đáo bởi đã gắn liền với trình diễn Quan họ tự bao đời nay.
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về và khi mùa thu tới, người dân 49 làng
Quan họ gốc thuộc xứ Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang ngày
nay), dù ở bất cứ nơi đâu cũng trở về quê hương để trẩy hội đình, hội
chùa, những lễ hội hết sức độc đáo bởi đã gắn liền với trình diễn Quan
họ tự bao đời nay.
Mặc dầu còn có những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của Quan
họ, có ý kiến cho là Quan họ có từ thế kỷ 11, số khác cho là từ thế kỷ
17, song, các công trình khảo sát, nghiên cứu từ trước tới nay đều đã
khẳng định giá trị to lớn của di sản "Văn hóa Quan họ", đặc biệt là dân
ca Quan họ, loại hình nghệ thuật được coi là cốt lõi của văn hóa xứ
"Kinh Bắc" ngàn năm văn hiến.
Dân ca Quan họ là một hình thức hát giao duyên. Những liền anh trong
trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng
trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát
đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không
cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của
người Quan họ.
Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên
Theo GS.
TSKH Tô Ngọc Thanh, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng
suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân
của di sản văn hóa quý giá và đặc sắc này là 17 dân tộc thiểu số thuộc
nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và Nam đảo (Austronesian) sống trên
khu vực cao nguyên trung bộ của Việt Nam.
Các cộng đồng cư dân nơi đây chủ yếu sống bằng canh tác nông nghiệp
truyền thống. Họ đã phát triển nhiều loại hình nghề thủ công, sáng tạo
ra nhiều phong cách trang trí và các kiểu nhà ở truyền thống độc đáo của
mình.
Tín ngưỡng chủ đạo của cư dân nơi đây xuất phát từ tục thờ cúng tổ
tiên, shaman giáo và thờ cúng vật linh. Gắn bó mật thiết với cuộc sống
hằng ngày của cư dân và chu kỳ các mùa trong năm, những tín ngưỡng này
hình thành nên một thế giới thần bí, nơi mà những chiếc cồng chiêng là
chiếc cầu nối thông linh giữa con người, thần linh và thế giới siêu
nhiên. Chứa đựng bên trong mỗi chiếc chiêng, chiếc cồng là một vị thần.
"Cồng chiêng càng già thì thần linh càng mạnh và càng thiêng"*. Hầu như
nhà nào cũng có cồng chiêng, thậm chí có gia đình có tới vài bộ. Điều
này thể hiện sự giàu có và quyền thế, đồng thời cũng là vật che chắn,
bảo vệ cho gia đình.
Bao ngàn đời nay, cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một phần không
thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các
sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ
cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả, v.v. cho
đến lễ cúng máng nước, mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông
mới, v.v.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã trở thành một Kiệt tác
Di sản truyền khẩu và phi vật thể của Nhân loại, bên cạnh niềm tự hào là
một trách nhiệm hết sức nặng nề và to lớn. Cồng chiêng vốn là tài sản
vô giá, được các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên sáng tạo và không ngừng
phát huy, trao truyền lại bao đời nay. Chính vì vậy, đối mặt với những
thử thách đó, Bộ Văn hóa - Thông tin đang chỉ đạo các cơ quan chức năng
cùng với cộng đồng có những hành động cụ thể nhằm khôi phục các giá trị
truyền thống, trả lại cho cồng chiêng linh hồn và cuộc sống đích thực
của nó.
Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam
Nhã nhạc, có
ý nghĩa "âm nhạc tao nhã", ra đời từ thế kỷ thứ XV đến giữa thế kỷ XX,
là thể loại âm nhạc được trình diễn trong cung đình Việt Nam vào các
cuộc tế, lễ gắn với các lễ kỷ niệm và những ngày lễ tôn giáo cũng như
các sự kiện đặc biệt như: lễ đăng quang, lễ tang hoặc những dịp đón tiếp
chính thức.
Nhã nhạc xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới thời nhà Chu (thế kỷ VI
- III TCN). Về sau, Nhã nhạc được lan tỏa sang các nước láng giềng như:
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Tuy được xem là tài sản chung nhưng
nhã nhạc của mỗi nước đều có điểm riêng biệt. Ở Việt Nam, Nhã nhạc bắt
đầu xuất hiện vào thế kỷ XV, nhưng phải đến thời kỳ nhà Nguyễn mới phát
triển rực rỡ và đạt đến trình độ uyên bác. Các triều đại quân chủ Việt
Nam hết sức coi trọng và phát triển Nhã nhạc, và loại hình âm nhạc này
trở thành một biểu tượng cho vương quyền về sự trường tồn, hưng thịnh
của triều đại.
Đặc trưng của Nhạc cung đình là tính bao trùm đối với tất cả các bộ
môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung
đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ
điệu, mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và
biểu diễn. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội
dung bài bản, v.v. của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ
qua các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng, quan
niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời. Các buổi trình diễn Nhã
nhạc thường huy động rất nhiều diễn viên ca múa và xiêm y phong phú với
những trang trí lộng lẫy và tinh tế.
Nhạc khí dùng trong Nhạc cung đình được "chế tạo tinh vi, chạm cẩn
khéo léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân gian, lại có đầy đủ màu
âm: tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng
bổng, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Về
độ cao có tiếng trầm của dây đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của
tiếng sáo".
Dàn Đại nhạc là dàn nhạc quan trọng trong hệ thống nhạc lễ cung đình
Huế, được diễn tấu dưới các trình thức quan trọng trong các buổi lễ,
thường được dùng trong các lễ tế như: tế Nam Giao, tế miếu, Đại triều,
v.v. Đây là dàn nhạc có âm lượng lớn, chủ yếu là dàn trống và kèn, kèm
theo các nhạc cụ gõ và hơi khác như: bồng, não bạt (chũm chọe), mõ sừng
trâu, trống cơm, kèn bầu, kèn lỡ và trong rất ít trường hợp là đàn nhị.
So với Đại nhạc, dàn Tiểu nhạc có bài bản âm nhạc tương đối ổn định
hơn và mang màu sắc trang nhã, vui tươi, thường được dùng trong các buổi
yến tiệc của triều đình, trong các lễ đại khánh, dịp tết nguyên đán.
Nhiều bài bản tiểu nhạc còn có lời ca. Nhạc khí của Tiểu nhạc bao gồm:
trống bản, não bạt, mõ sừng trâu, phách tiền, tam âm la, trống chiến,
sáo, đàn tam, nhị, tỳ bà và đàn nguyệt. Trong tất cả các bài bản trình
diễn, người diễn viên phải hết sức tập trung để theo kịp và phối hợp
nhịp nhàng với dàn nhạc và diễn viên khác tiến hành nghi lễ.
Nhã nhạc đã trở thành một phần thiết yếu của nghi lễ cung đình Việt
Nam với hàng trăm nghi lễ khác nhau hằng năm. Tuy nhiên, vai trò của Nhã
nhạc không chỉ giới hạn ở việc hòa nhạc phục vụ các nghi lễ mà còn cho
thấy là một phương tiện giao tiếp và thể hiện lòng tôn kính đối với thần
linh và các vua chúa thời phong kiến, cũng như truyền tải được những tư
tưởng triết lý và tri thức về vũ trụ của người Việt Nam.
Nhã nhạc được UNESCO công nhận là Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của Nhân loại vào ngày 07 tháng 11 năm 2003.
Nghi lễ và trò chơi Kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc, Philippines
Nghi lễ và
trò chơi kéo co được thực hành rộng rãi trong văn hóa trồng lúa ở Đông
và Đông Nam Á, với mong ước cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu hay
những tiên đoán liên quan đến sự thành công hay thất bại của nỗ lực
trồng cấy. Tùy vào mỗi quốc gia thành viên, nghi lễ và trò chơi kéo co
được tổ chức ở cấp độ toàn quốc hoặc tại các vùng nhất định trong từng
nước.
Ở Campuchia, di sản được thực hành thường xuyên bởi các cộng đồng
trồng lúa nằm xung quanh Hồ lớn (Great Lake) của Biển Hồ Tonle Sap và
khu vực phía bắc Angkor, di sản thế giới được nhiều người biết đến.
Ở
Phi-líp-pin, Hungduan là một thành phố của Ifugao, có ranh giới phía tây
bắc là tỉnh Mountain và phía tây nam là Benguet. Ở chín barangays tạo
nên thị trấn Hungduan, chỉ có Hapao Proper, Nungulunan, and Baang thực
hành kéo co. Ba barangays này nằm ở trung tâm của Hungduan và nổi bật
với những ruộng bậc thang rộng ngút ngàn, được ngăn bằng các vỉa đá.
Ở Hàn
Quốc, hầu hết các thị trấn ở các vùng nông nghiệp đều tổ chức nghi lễ và
trò chơi kéo co. Thực hành này đặc biệt phổ biến ở các vùng đồng bằng
rộng và bằng phẳng, ví dụ ở các khu vực phía tây nam của bán đảo Hàn
Quốc. Các địa bàn nổi tiếng về nghi lễ và trò chơi kéo co gồm có: các
khu vực nông nghiệp của Dangjin, Namhae, Milyang, và Uiryeong,
Changnyeong cũng như các khu vực nửa nông nghiệp và nửa ngư nghiệp ở
Samcheok.
Ở Việt
Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung hầu hết ở vùng trung du, đồng
bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ - đây là vùng đất tụ cư lâu đời của người
Việt, là cái nôi của nền văn minh lúa nước, với trung tâm là các tỉnh
Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội. Thêm nữa, di sản còn được thực
hành thường xuyên bởi các tộc người ở miền núi phía Bắc Việt Nam như
người Tày (tỉnh Tuyên Quang), người Thái (tỉnh Lai Châu) và người Giáy
(tỉnh Lào Cai), vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Theo: Tư liệu Cục Di sản Văn hóa