Ngày nay, việc kết hợp sơn mài
cùng những nguyên liệu khác đã tạo nên sự đa dạng về chủng loại sản
phẩm. Bên cạnh các sản phẩm sơn mài có phôi gỗ, hình thức sử dụng phôi
gốm, phôi MDF (Cót ván ép)... đã tạo ra nhiều sản phẩm sơn mài độc đáo,
dần khẳng định vị thế thương hiệu sơn mài Việt Nam trên thị trường thủ công mỹ nghệ quốc tế.
1. Nguyên liệu thô: Một sản phẩm sơn mài được kết tạo từ những nguyên liệu chính sau:
+ Sơn: được tạo từ cây sơn, dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông và nhựa dó...
+ Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và
đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ (son) nên không bị phân huỷ trước
ánh sáng và thời gian.
+ Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp... và các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm...
+ Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp...
+ Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn công nghiệp có thể thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản xuất tranh và màu sắc thì vô cùng phong phú.
Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng khác biệt trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân. Kỹ thuật làm tranh khác với làm tượng,
lại khác với trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim... Có thể chia làm một
số công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng.
2.1 Bó hom vóc:
Đây là công đoạn bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn).
- Dùng đất phù sa (có thể dùng bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn
cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại
lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài
và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn
xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt
sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối
mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót.
2.2 Trang trí:
- Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình
hoa, các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn,
dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc...sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu.
Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối...
người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió
thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn
ướt.
2.3 Mài và đánh bóng:
- Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu
tạo thành độ sâu thẳm của sản phẩm do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người
xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh
bóng sản phẩm lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại
tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của sơn
mài. Sự thành công của một tranh sơn mài nói riêng và sản phẩm sơn
mài nói chung phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để
mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà
v.v..
Hiện nay, tranh sơn mài sử dụng nguyên liệu là sơn Nhật được dùng khá phổ biến. Sơn Nhật lại nhanh khô và làm cho việc ai đó muốn vẽ tranh ở nước ôn đới cũng
có thể thực hiện được. Nhưng khi sử dụng sơn Nhật, để tranh được bóng,
người ta thường dùng một lớp sơn trong (sơn cánh gián) phủ ra bên ngoài
tranh, còn nếu tranh sơn mài dùng sơn ta, chỉ cần lấy nắm tóc rối xoa
lên tranh, hoặc dùng bàn tay có độ ẩm (có ít mồ hôi) xoa lên tranh,
tranh sẽ rất bóng. Tuy nhiên, tranh sơn màu dùng sơn ta vẫn được ưa
chuộng hơn vì sự công phu trong quá trình làm tranh và khi nhìn, nó tạo
độ sâu cho bức tranh hơn.
Sơn mài xuất hiện trên thế giới đã lâu, nhất là tại các nước vùng Đông Nam Châu Á:
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Miến Điện... Hiện nay, những nhà khảo
cổ học còn đang tranh cãi về nguồn gốc, xuất xứ của ngành sơn mài cổ
truyền.
Quá trình hình thành và phát triển của sơn mài truyền thống Huế
Tại Việt Nam, những vết tích đầu tiên về sơn mài đã được khai
quật cách đây hàng trăm năm TCN. Vào thời Đinh (930-950), dân ta đã dùng
mủ cây sơn để trét thuyền; rồi lần lượt qua các triều đại Lê, Lý, Trần
còn giữ được nhiều cổ vật, nhiều pho tượng gỗ hay đất đều được sơn son
thếp vàng... Mãi đến thời vua Lê Nhân Tông (1443-1460), cụ Trần Lư (hiệu
Trần Thượng Công) mới được tôn là bậc thầy đầu tiên của ngành nghề này.
Các học trò của cụ đã lập phường thợ tỏa đi khắp nơi, những người thợ
giỏi được triều đình thu nạp vào nội phủ để trang trí, vẽ vời nội thất
cung điện.
Hiện nay, Huế là nơi mà những vết tích và tác phẩm sơn mài cổ
còn được bảo lưu một cách quy mô và đầy đủ nhất. Có được điều này bởi
Huế đã một thời là thủ phủ của xứ Đàng trong (1802-1945). Thời bấy giờ,
Huế là nơi hội tụ của nhiều tài năng, trí tuệ của cả nước. Cùng với kiến
trúc, điêu khắc, sơn mài có mặt khắp nơi: từ các đình chùa làng xã, đến
đền đài lăng tẩm, cung điện của vua chúa đều được sơn thiếp vàng son
lộng lẫy. Các vật dụng từ trong dân dã cho đến các gia đình quyền quý,
các nhà thờ họ như: Hoàng Phi, câu đối, đáp, hộp, kiệu võng, án thư, sạp
tử đều được sơn mài tô điểm trang trọng. Nguồn gốc của sơn mài Huế là ở
các làng Triều Sơn, Địa Linh, Tiên Nộn. Ngành sơn mài truyền thống Huế
cũng được sinh hoạt theo từng cụm gia đình, họ hàng theo kiểu cha truyền
con nối như một số ngành nghề thủ công khác. (hang son mai my nghe)
Chất liệu chính để làm sơn mài là mủ
nhựa được trích từ vỏ của cây sơn. Mủ nhựa của cây sơn có độ dính cao và
rất bền chắc, chịu được nước mưa, nước mặn, độ ẩm cao. Vì vậy người ta
dùng nhựa sơn để chắp nối gỗ ghép mộng hoặc sơn quét lên đồ đạc bằng gỗ
vừa bóng đẹp lại vừa tăng độ bền. Trước đây, nhựa sơn được các chúa
Nguyễn lấy từ các rừng ở Quảng Trị, Quảng Ngãi, Nam Đông (thuộc Thừa
Thiên Huế), sau này là ở Phú Thọ và nhựa sơn ở Phú Thọ tốt hơn. Qua các
phương pháp chế biến cổ truyền tại Huế, các nghệ nhân đã tạo nên những
sản phẩm thủ công mỹ nghệ vô cùng quí giá.
Để sáng tạo nên một tác phẩm sơn mài hòan chỉnh, các họa sĩ
phải trải qua nhiều công phu, tỉ mỉ, với thời gian trung bình khoảng 6
tháng. Chỉ nói đến thời gian để tạo nên tác phẩm không thôi cũng đủ thấy
"khủng khiếp" cho những ai không thực sự yêu nghề và đam mê bộ môn nghệ
thuật này. Chính bởi sự công phu và tỉ mỉ của nó mà sơn mài truyền
thống Huế có giá trị sử dụng rất lâu, có khi còn lâu hơn cả thời gian
tồn tại của một đời người (từ khoảng 50 năm - 200 năm). Tất nhiên, việc
sử dụng còn tùy thuộc vào chủ nhân của nó có biết "nâng niu" những tác
phẩm nghệ thuật mình có hay không!
Năm 1960, sơn mài truyền thống Huế được đưa vào giảng dạy ở
trường Đại học Nghệ thuật Huế với tư cách là một bộ môn nghệ thuật thực
sự. Một năm ngành học này chỉ tiếp nhận 2 đến 5 sinh viên, với đội ngũ
giáo viên nhiệt huyết, tận tâm với nghề và luôn coi trọng cái "tư chất"
của người theo học chứ không phải là "con số". Vì vậy mà nhiều thế hệ
sinh viên ra trường đã trở thành những người hữu ích cho xã hội.(hang son mai my nghe)
Từ một tấm gỗ, khối gỗ thô sơ, để làm tốt phần "vóc" của sơn
mài, trước hết người họa sĩ phải phủ trên mặt gỗ một lớp sơn sống trộn
với bột đất và mạt cưa để làm "tít" gỗ, quá trình này còn được gọi là
"chu hom"; Xong, phủ lên một lớp sơn sống để phát vải lên bề mặt gỗ rồi
lại đem chu hom từ 5 đến 6 lần, trước mỗi lần chu hom mới phải ủ khô và
mài; Rồi thì lót sơn 5 nước và ủ khô trong khoảng thời gian từ 3 đến 5
ngày (tùy thuộc vào thời tiết). Để hoàn tất cái "cốt gỗ" (vóc) phải mất 2
tháng cho những bức sơn mài thông thường, đối với một số bức sơn mài
nghệ thuật có khi mất cả năm trời. Sau đó, ta đi màu son 3 nước và mài
bóng. Phần việc còn lại là trang trí bức sơn mài. Đối với loại sơn son
thiếp vàng thì công đoạn này có phần đơn giản hơn: ta chỉ cần vẽ rồng,
phủ vàng lá hay bạc lá lên trên rồi sơn lên một lớp sơn cánh dán và mài
bóng. Đối với tranh sơn mài nghệ thuật thì phức tạp hơn nhiều, các công
đoạn còn phụ thuộc rất lớn vào tính sáng tạo của họa sĩ: Khi bức tranh
đã được mài nhẳn, muốn "cẩn" (vỏ trứng) lên tranh thì ta phải đụa gỗ
theo phác thảo, cẩn vỏ trứng vào đem ủ khô rồi mới mài. Đến đây là phần
việc của vẽ tranh và tạo màu. Sau khi vẽ tranh vào tạo màu hoàn tất ta ủ
khô và sơn lên một lớp sơn cánh dán. Một thời gian khi bức tranh đã khô
ta đem mài và đánh bóng bằng bột than cho mịn. Sự thành công của một
bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng.
Sơn mài truyền
thống có thể chia là 3 loại: Loại sơn quang gồm các vật dụng bằng mây,
tre, gỗ, như hộp, quả, khay... được quang thếp một lớp sơn mỏng theo
cách riêng, có nhuộm màu nhẹ, khá phổ biến trong dân dã; loại sơn son
thếp vàng chỉ được thấy trong các gia đình quyền quý, khá giả, các nhà
thờ họ, đình chùa, nhất là tại các lăng tẩm cung điện vua chúa... Nhưng
nổi tiếng và độc đáo nhất là loại sơn mài đắp nổi. Về cơ bản cũng giống
như sơn son thếp vàng nhưng các chi tiết được đắp nổi được trộn với hỗn
hợp bột đá non, tro mo cau và giấy tinh giã nhỏ, tùy theo từng sản phẩm
mà sử dụng cho thích hợp. Sơn mài đắp nổi có nhiều trong nội phủ, hoàng cung với nhiều chi tiết hoa văn vô cùng phong phú, tinh xảo.
Nói đến sơn mài truyền thống Huế là nói đến thời gian và tính
chất nghệ thuật của nó. Một bức sơn mài có thể đặt ở nơi trang trọng, uy
nghi như đền đài, lăng tẩm, chùa chiền đến những ngôi nhà hiện đại mang
đậm tính Tây phương đều được cả. Ơở mỗi nơi, mỗi vị trí, sơn mài mang
một dáng vẽ riêng không thể lẫn lộn. Du khách, các nhà khảo cổ học trong
và ngoài nước có dịp đến Huế đều không thể làm ngơ trước cảnh đẹp mà
tạo hóa đã ban tặng cho Huế, nhất là trước vẻ đẹp trầm tư, uy nghi được
các nghệ nhân và con người xứ Huế qua bao đời tôn tạo và gìn giữ. Trong
những cái đẹp không thể phủ nhận ấy có cả cái đẹp của sơn mài truyền
thống Huế.
Tranh sơn mài thời gian qua “ra lò” khá nhiều. Một số triển lãm
cá nhân còn trưng bày toàn tranh sơn mài. Điều này chứng tỏ tranh sơn
mài vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với các họa sĩ, kể cả các họa sĩ trẻ vốn
ưa thích cái mới lạ và hiện đại
Từ lâu, trong suy nghĩ của nhiều người, tranh sơn mài truyền
thống Việt Nam vốn được xem là khó bứt ra khỏi khuôn mẫu đã được định
sẵn. Đó là những màu sắc đỏ, vàng, đen, bạc đặc trưng, các công đoạn cầu
kỳ tỷ mẩn, những kỹ thuật đã được đúc kết qua nhiều thế hệ. Nhưng qua
sự phát triển của tranh sơn mài trong những năm gần đây mới thấy chính
sự khuôn mẫu, định sẵn tưởng như bất di bất dịch ấy lại là mảnh đất rộng
rãi để các họa sĩ tha hồ sáng tạo.(hang son mai my nghe)
Sự thật không thể phủ nhận là, cho đến nay nghệ thuật sơn mài
Việt Nam đã có những cách tân đáng kể. Thông qua sự thể nghiệm, tìm
tòi, các họa sĩ trẻ đã ít nhiều làm cho bộ mặt hội họa sơn mài truyền
thống có nhiều nét mới, đa dạng, độc đáo hơn! Sự sáng tạo đầu tiên mà
những người ít am hiểu hội họa nhất cũng rất dễ dàng nhận thấy, đó là
bên cạnh cái sắc lóng lánh của vàng bạc, cái sắc đỏ tươi tắn của son và
sắc đen quyến rũ của sơn ta, người ta còn thấy những sắc tím, sắc xanh,
sắc hồng... khiến cho tranh sơn mài mất hẳn sự đơn điệu, nhàm chán về
màu sắc.
Rồi để tranh sơn mài có sức sống và mềm mại hơn, đồng thời
tránh được sự cong vênh do thời gian và điều kiện khí hậu thời tiết, có
họa sĩ đã nghĩ ra cách thay thế những tấm vóc đen bóng với vẻ đẹp thô
cứng, góc cạnh bằng những quả bầu khô hay những tấm đá đen. Sự sáng tạo
độc đáo này đã mang đến cho bức tranh sơn mài sự sống động và thanh
thoát.
Không ít yếu tố mới trong kỹ thuật sơn mài cũng được các họa sĩ
khai thác và phát huy. Chẳng hạn như họa sĩ Võ Xuân Huy ở Huế đã tạo ra
những hiệu ứng như “nhăn nhúm”, “mòn vẹt” khi phun những giọt nước li
ti lên mặt sơn còn ướt hay tận dụng những vết nứt gãy xuất hiện do sự
biến đổi bất ngờ của nhiệt độ ở một thời điểm nhất định trong quá trình ủ
tranh để gửi gắm ý tưởng nghệ thuật. Những cách tân, sáng tạo đã mang
lại cách biểu đạt phong phú hơn cho chất liệu sơn mài...
Sáng tạo đến đâu để không xa rời cội rễ?
Công chúng yêu hội họa ai cũng mừng khi thấy dòng tranh “quốc
hồn quốc túy” của dân tộc có những nét mới hứa hẹn sự khởi sắc trước sự
sáng tạo không ngừng của lớp họa sĩ trẻ. Nhưng không ít người trong số
đó nhanh chóng cảm thấy ái ngại khi biết có họa sĩ chỉ trong vòng 2-3
năm sáng tác ra vài chục bức sơn mài. Con số ấy đã ít nhiều cho thấy
chất lượng của tranh thế nào. Bởi theo cách làm sơn mài truyền thống thì
để hoàn thành một bức tranh người họa sĩ phải mất đến hàng tháng, thậm
chí hàng năm. Để chạy theo số lượng, nhiều họa sĩ đã sử dụng các hóa
chất nhập ngoại như sơn điều, sơn Nhật Bản để vẽ, các công đoạn khác
cũng ứng dụng máy móc công nghiệp chứ không hoàn toàn là thủ công như
trước. Có người nói, thế thì đâu còn là tranh sơn mài nữa mà có lẽ nên
gọi là tranh sơn Nhật thì đúng hơn. Người làm tranh sơn mài truyền thống
đích thực phải là người tuân thủ và phát huy những truyền thống quý của
nghệ thuật dân tộc, chỉ dùng sơn ta chứ không dùng sơn công nghiệp để
vẽ.
Lại có những họa sĩ đương đại vẽ tranh sơn mài nhưng lại bỏ qua khâu
mài, và thay vì làm nhẵn thì họ lại làm sần sùi đi hoặc dùng thêm các
chất liệu khác để phủ, đắp, gắn lên tranh sơn mài. Tuy cách làm đó vẫn
chưa đến được những tạo hình có nghệ thuật, có thẩm mỹ và tương đối mới
lạ, song đã đi khá xa so với nghệ thuật truyền thống. Theo ông Lê Huy
Tiếp - Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam thì thế giới
vẫn gọi chung “sơn mài” là “lacquer” (vẽ bằng chất liệu sơn) - tức là có
mài hay không cũng không quá quan trọng, còn ở Việt Nam, sơn mài có
nghĩa là sơn và mài. Như vậy nếu chỉ còn phần sơn mà bỏ đi phần mài thì
không thể gọi là sơn mài được.
Nhiều người không phản đối việc dùng các chất liệu sơn khác nhau trong dòng tranh sơn mài
kể cả việc không mài trong tranh. Điều mà họ quan tâm là bức tranh đó
có đẹp không, có chứa đựng sự sáng tạo nào không? Thậm chí họ còn cho
rằng đó là những cách để thổi hơi hướng hiện đại vào nghệ thuật truyền
thống, đó mới là sự sáng tạo thực thụ của người nghệ sĩ đương đại... Vậy
nhưng, có một điều cần phải nhắc lại là: Thế giới quan tâm đến hội họa
Việt Nam chính bởi Việt Nam có chất liệu sơn mài. Những họa sĩ làm tranh
sơn mài được thế giới thừa nhận cho đến nay vẫn chỉ là những người
trung thành với kỹ thuật truyền thống. Dù những tìm tòi sáng tạo của các
họa sĩ có phong phú đa dạng đến thế nào thì tranh sơn mài của Việt Nam chỉ thực sự có giá trị độc đáo khi giữ được chất liệu truyền thống và quy trình sáng tác hoàn toàn thủ công.
Theo: sonmaihoangphu.com