Đó là một ngôi chùa nhỏ nằm ở thôn Thượng, xã Nhị Khê
(Thường Tín - Hà Nội), với cái tên cổ kính Phong Đăng Tự được ghi trên văn bia
từ năm Thành Thái thứ 4 (1892). Trước những năm kháng chiến chống Pháp, toàn bộ
ngôi chùa cổ bị quân lính thực dân san phẳng hòng xóa trắng địa điểm giao liên
của quân Cách mạng - chỉ còn lại văn bia và chiếc chuông kỳ lạ được dân làng
cất giấu còn lại đến ngày nay…
Một
buổi chiều đầu hạ trời đầy nắng, tôi tìm đến Nhị Khê sau khi được một người bạn
mách rằng, chùa làng Thượng có chiếc chuông chùa cổ và kỳ lạ lắm. Từ trung tâm
Hà Nội, đi xuôi theo Quốc Lộ 1A cũ khoảng hơn mười cây số, đến đúng làng nghề
cổ truyền với đặc sản bánh dày Quán Gánh thì phía bên kia đường tàu chính là
cổng làng thôn Thượng (còn gọi là Thượng Đình). Người dân địa phương từ lâu đã
lãng quên cái tên khai sinh của chùa là Phong Đăng Tự mà thường gọi nôm na là
chùa thôn Thượng
Chứng nhân lịch sử
Qua
cổng làng, đi tới gần cuối làng thì rẽ phải, đó chính là lối vào chùa thôn
Thượng, với khuôn viên khá rộng. Nếu không để ý có thể không nhận ra chùa thôn
bởi không giống như những ngôi chùa khác, cổng chùa được ghép bằng tôn tấm. Đó
chính là cánh cổng của trường mẫu giáo thôn, trước kia từng hoạt động nhờ một
khu nhà thuộc khuôn viên nhà chùa.
Bước qua cánh cổng chùa đặc biệt ấy, mở ra trước mắt tôi là
một không gian rộng, tĩnh mịch như tờ, với hai ngôi chính là Tam Bảo và Đại
Bái, phần còn lại là khuôn viên chùa với những hàng cây xanh mát và ao chùa lúc
nào cũng đầy ăm ắp nước… Chênh chếch phía xa bên phải
của
khuôn viên có ba ngôi miếu nhỏ, là nơi lưu giữ xá lị của các vị sư từng có công
xây dựng và trông coi Phong Đăng Tự.
Đi
vào phía trong ngôi Tam Bảo, tôi gặp sư thầy duy nhất đang trông coi ngôi chùa:
Sư thầy Thích Đàm Thủy, năm nay đã hơn 50 tuổi và đã thoát tục từ 20 năm nay.
Sư thầy Đàm Thủy cho biết: "Hai cụ của tôi từng là sư trụ trì chùa này,
một cụ là Đàm Minh và một cụ là Đàm Trí. Trong những năm kháng chiến chống
Pháp, cụ Đàm Minh đang làm cách mạng ở Diên Phúc, Diên Hà (Thái Bình) thì bị lộ
nên được tổ chức chuyển về Hà Nội hoạt động"
Trước
đó, chùa Phong Đăng đã bị lính Pháp phá tan tành - vì là một địa điểm bí mật
của Cách mạng. Ngay sau trận đốt phá của giặc Pháp, dân làng Thượng bí mật ra
bãi hoang tàn thì thấy tháp chuông và nhà bia vẫn còn nguyên, chưa hề bị cháy.
Thấy vậy, dân làng bèn khiêng bia đi cất giấu, còn chiếc chuông chùa thì được
tháo xuống và đem vào làng Văn Xá thả xuống giếng, đề phòng sau này giặc Pháp
quay lại lấy đi mất.
Khi
sư thầy Đàm Minh về nhận công tác ở Hà Nội thì các cụ bô lão địa phương đã mời
sư thầy về nhận chùa làng, thực chất chỉ còn cái nền chùa cũ, còn tất cả đã bị
đốt phá sạch. Sư thầy Đàm Minh nhận lời và bắt tay vào xây dựng lại ngôi Tam
Bảo trên nền chùa cũ. Mãi thời gian sau, khi hòa bình lập lại, dân làng mới dám
đem bia và quả chuông về chùa. Vừa trông coi hương khói cho chùa Phong Đăng, sư
thầy Đàm Minh vừa hăng hái hoạt động Cách mạng, ban đêm thì đi họp - những khi
có xảy ra đánh nhau giữa quân Cách mạng và giặc Pháp thì sư thầy lại cùng tham
gia cứu thương.
Thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa Phong Đăng trở thành địa điểm chuyển quân và điều
trị thương binh trong chiến tranh. Lúc này, ngoài ngôi Tam Bảo, sư thầy Đàm
Minh đã cùng dân làng xây dựng được thêm phần Đại Bái và hậu cung - dù chỉ bằng
tranh tre nứa lá nhưng cũng là một địa điểm rộng rãi và yên tĩnh để các thương binh
nằm điều trị và cũng là một trong những địa điểm tập kết của bộ đội miền Nam ra
Bắc. Sau khi sư thầy Đàm Minh qua đời, sư thầy Đàm Trí đã tiếp tục trông giữ
ngôi chùa trong suốt những năm tháng khó khăn của đất nước. Thi thoảng, các cựu
chiến binh từng đóng quân trong chùa vẫn lui tới Phong Đăng tự để hồi tưởng lại
những năm tháng hào hùng ấy.
Mãi
đến năm 1997, nhờ một người làng khá giả đóng góp, sư thầy Đàm Trí mới có điều
kiện kiên cố hóa ngôi Đại bái như ngày nay. Những tấm liếp của ngôi Đại Bái
chùa Phong Đăng ngày ấy hiện vẫn được lưu giữ trong chùa Phong Đăng, như một
phần chứng nhân cho một thời kỳ lịch sử và những đóng góp của ngôi chùa cho hai
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Dù vậy, nhưng trải qua thời gian, ngôi
chùa cổ đã xuất hiện mối xông ở khắp nơi mà các hộp thuốc diệt mối của người
dân mang đến đặt chẳng hề phát huy tác dụng.
Chùa thiêng, chuông cổ
Chùa
Phong Đăng được tiếng là thiêng. Những câu chuyện ly kỳ được người dân trong
làng lưu truyền thì nhiều vô kể, nhưng khi được hỏi, sư thầy Đàm Thủy cười hiền
rồi kể lại những chuyện mà hai cụ sư thầy trụ trì trước được chứng kiến tận
mắt.
Ấy là những năm chiến tranh, chùa Phong Đăng có
khoảng 3 sào ruộng để cụ Tăng của chùa trồng cấy. Mùa thóc năm đó, sau khi gặt
xong, thầy Đàm Minh để lúa bên bờ ruộng, chưa kịp gánh về vì phải đi công
chuyện gấp trong đêm. Đến sáng hôm sau, ra đến ruộng thì đống lúa mới gặt đã
không cánh mà bay. Giận quá, sư thầy về thắp hương khấn Đức ông trong chùa,
rằng chỉ thu hoạch được ít lúa mà kẻ gian đã gánh trộm mất rồi. Đến sáng hôm
sau nữa, sư thầy đi ra ruộng lúa thì đã thấy đống lúa mình gặt hôm trước đã nằm
nguyên vẹn trên bờ ruộng, như chưa hề bị suy suyển. Sư thầy cứ băn khoăn, không
hiểu kẻ gian biết là thóc của chùa nên đem trả hay là Đức ông trong chùa đã
"đòi" giúp.
Một
lần khác, khi một phần khuôn viên chùa còn dùng làm trụ sở hợp tác xã. Hôm đó,
có ông Dương và ông Liêm ra trụ sở làm việc rồi nhân lúc rảnh, ngồi nhờ rồi
chơi bài trong ngôi Tam Bảo. Chơi một hồi thì khát nước nên ông Dương vái lạy
xin một quả cam trên ban ăn cho đỡ khát, còn ông Liêm chẳng vái chẳng rằng, tự
tiện lấy ăn. Đến khi về nhà, ông Liêm bị đau bụng dữ dội. Người nhà cứ đưa đến bệnh
viện thì khỏi mà đưa về nhà thì lại đau trở lại. Đến khi vợ ông Liêm thấy lạ
quá, mới gặng hỏi thì ông Liêm mới kể rằng có ăn một quả cam trong chùa. Vợ ông
liền sắm một cái lễ ra chùa khấn vái một hồi thì hết đau.
Sư
thầy Đàm Thủy đang kể chuyện thì có một cụ bà người của làng vào chùa, mang
theo hai bó hoa cúc lớn vừa cắt ở ruộng nhà vào biếu nhà chùa. Bà cụ này kể
rằng, đoạn đường sắt song song với quốc lộ 1A trước cổng làng Thượng, trước đây
thường xuyên xảy ra tai nạn tàu hỏa. Có những lần nghiêm trọng, máu người bị
nạn bắn xuống sông Tô Lịch chảy qua đó làm đỏ cả dòng nước. Đến khi làm lễ cầu siêu
cho các nạn nhân, người ta mới xin sư trụ trì đưa vong linh họ vào làm lễ trong
chùa để hóa giải những oan khuất trên đoạn đường. Kể từ đó đến nay, đoạn đường
sắt chạy qua thôn Thượng chưa hề có thêm một tai nạn đường sắt đáng tiếc nào
nữa.
Sư
thầy Đàm Thủy dẫn tôi đi tham quan khắp nơi trong khuôn viên rộng tới hơn 1 mẫu
vuông của chùa Phong Đăng. Đặt bàn chân trần lên từng lớp rêu mát lịm dưới
chân, tôi như quên hết mọi âm thanh ồn ào, xô bồ của cuộc sống thường nhật. Lần
tay đọc từng chữ Hán Nôm viết trên văn bia và chiếc chuông cổ treo ở góc gian
Đại Bái: "Chữ viết rằng, Phong Đăng tự khởi công vào mùa Thu năm Canh Dần
và hoàn thành vào mùa Xuân năm Tân Mão, năm Thành Thái thứ 4… Chiếc chuông này
rất kỳ lạ là sau khi được dân làng cất giấu, bị ngâm xuống giếng một thời gian
dài mà đến nay, khi đánh lên, tiếng chuông vẫn thanh và ngân xa. Không giống
như phần lớn chuông chùa bị ngâm xuống giếng thì đều bị câm, đánh không ra
tiếng nữa…".
Theo Thế
giới & Việt Nam