Theo
hồi ức truyền đời của những người già Tà Niên kể lại cho lớp con cháu đời
sau, vì thương cụ Nguyễn, cảm kích khí khái, phẩm chất kiên trung của cụ mà
khi hay tin cụ sẽ bị hành quyết, người Tà Niên đã bàn với nhau dệt chiếu nâng
bước người anh hùng đất Việt vào cõi thiên thu. Khi lưỡi đao của kẻ thù bổ
xuống, máu từ cổ người anh hùng phun xuống mặt chiếu Tà Niên, đọng thành hình
chữ Thọ. Thương nhớ cụ Nguyễn, người Tà Niên đã mang chiếc chiếu thấm máu
người anh hùng về lưu thờ và cũng từ đây, nghề dệt chiếu hoa với chữ Thọ
không thể thiếu ở làng chiếu Tà Niên được hình thành
144 năm
trước, Nguyễn Trung Trực, anh hùng dân tộc nổi tiếng với chiến công đánh chìm
tàu Pháp trên sông Nhựt Tảo và câu nói bất hủ lúc bị giải ra đoạn đầu đài
“Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”, bị
thực dân Pháp hành hình vì “tội” yêu nước và chống lại mẫu quốc. Thời khắc bi
thương đó đến nay đã gần 15 thập niên trôi qua nhưng khí phách của anh hùng
Nguyễn Trung Trực khi bị kẻ thù “trảm sống” vẫn còn sống mãi trong lòng dân
tộc với nhiều giai thoại, truyền thuyết bi hùng về một vị tướng kiên trung,
quả cảm, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng
Một
trong những di vật gắn liền với giai thoại lịch sử ấy hiện “có mặt” tại đền
thờ cụ Nguyễn tại thành phố Rạch Giá, Kiên Giang. Đó là chiếc chiếu cổ mà
đồng bào Tà Niên dùng để trải đường cho người anh hùng bước vào lòng dân tộc!
Là
thủ lĩnh phong trào kháng Pháp miền Tây Nam Bộ từ năm 1861 đến 1868, theo tài
liệu của Bảo tàng Kiên Giang, Nguyễn Trung Trực sinh năm 1838, người huyện
Cửu An, phủ Tân An, nay thuộc địa phận xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long
An. Xuất thân là dân chài lưới, lúc mới vào lính, Nguyễn Trung Trực được biên
chế trong hệ thống lính đồn điền của quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương (sinh năm
1800, mất năm 1873, người tỉnh Thừa Thiên, xuất thân trong một gia đình làm
ruộng và nghề mộc, Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống quân Pháp
xâm lược ở các mặt trận Đà Nẵng năm 1858, Gia Định năm 1861 và Hà Nội vào năm
1873).
Khi
Pháp nổ súng xâm lược Nam Kỳ, Nguyễn Trung Trực tham gia vào lực lượng nghĩa
quân của Trương Định (sinh năm 1820, người tỉnh Quảng Ngãi, thủ lĩnh kháng
Pháp từ năm 1859 đến năm 1864, tuẫn tiết vào năm 44 tuổi tại Gò Công khi bị
quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp với sự chỉ điểm của kẻ phản bội Huỳnh Công
Tấn). Tháng 6/1867, Pháp đánh chiếm Hà Tiên, Nguyễn Trung Trực bám thủ ở Hòn Chông
(nay thuộc huyện Kiên Lương, Kiên Giang) và rồi chuyển quân về hoạt động tại
vùng Tà Niên. Được sự ủng hộ hết lòng của dân trong vùng, ngày 16/6/1868,
Nguyễn Trung Trực thống lãnh nghĩa binh đánh chiếm đồn Rạch Giá, làm chủ tỉnh
lị này trong 6 ngày và sau đó bị Pháp bắt ở Phú Quốc, giam giữ tại khám đường
Sài Gòn và xử chém cùng 6 nghĩa binh kiên trung khác tại Rạch Giá vào ngày
13/10/1868.
Cần
nói rõ rằng sau khi Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp hành hình, hậu thế
chẳng thể nào biết được thân xác của cụ nằm nơi đâu. Cụ được chôn cất hay bị
kẻ thù thủ tiêu, quẳng xuống sông hay vùi lấp ở đầm lầy nào đó?! Về điều này,
ông Đỗ Ngọc Minh, Trưởng Ban bảo vệ di tích đền thờ Nguyễn Trung Trực cho
biết căn cứ vào lời truyền trong dân gian và từ một số tài liệu do Pháp để
lại thì sau khi bị hành hình, thi thể cụ Nguyễn được giao cho toán lính Pháp đưa
ra phía sau Tòa bố chính (còn gọi dinh Tỉnh trưởng) cách nơi hành hình 70m
tiến hành chôn cất. Vì khiếp sợ oai linh của cụ và cũng vì kính nể sự hiên
ngang của vị anh hùng mà chính những người lính Pháp đã trồng một cây đa trên
mộ cụ để làm dấu
"Sau
năm 1975, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã đặt ra yêu cầu tìm cho bằng được mộ
Nguyễn Trung Trực. Xác định đó là nghĩa vụ thiêng liêng nên nhóm khảo sát đã
dày công kiếm tìm, nhưng sau bao nỗ lực vẫn không phát hiện được dấu tích nơi
yên nghỉ của cụ vì Tòa bố chính qua nhiều đợt xây dựng đã thay đổi cấu trúc
ban đầu. Sau nhờ sự giúp đỡ của cố nhà văn Sơn Nam (tên thật là Phạm Minh Tày,
từ năm 1943-1944 làm thư ký Tòa bố Rạch Giá, tác giả quyển “Nguyễn Trung Trực
- anh hùng dân chài”, xuất bản tại Sài Gòn năm 1959) mà nhóm khảo sát đã tìm
thấy mộ cụ Nguyễn dưới phiến đá hình vòm cung dài khoảng 1m" - ông Minh
kể lại sự việc.
Thời
khắc thiêng liêng ấy diễn ra vào khoảng 13h ngày 19/4/1986. Sau 4 giờ đồng hồ
tỉ mẩn kiếm tìm, đội khai quật đã tìm thấy được hài cốt cụ và di dời về đền
Nguyễn Trung Trực ngày nay (phường Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá, Kiên Giang,
mộ và đền thờ được công nhận là Di tích Lịch sử - văn hóa quốc gia vào năm
1989). Ngày 15/11 năm ấy, ngôi mộ mới của cụ Nguyễn được hoàn thành, nằm
trước nhà Tây lan bên trái đền thờ. Điều này càng thắp lửa cho lòng tôn kính của
nhân dân Kiên Giang nói riêng, cả nước nói chung với bậc vĩ nhân lịch sử,
thêm phần rực cháy!
|
Chiếu cổ lịch sử.
|
Đưa
chúng tôi đi thăm khuôn viên đền thờ người anh hùng sống mãi trong lòng dân
tộc, sau những sẻ chia về biết bao chiến công hiển hách của cụ Nguyễn, ông Đỗ
Ngọc Minh dừng lại trước một di vật thiêng liêng với dòng chú thích
"Chiếu hoa lịch sử". Sau giây phút trầm ngâm, giọng run run, ông
Minh cho biết, chiếc chiếu này từng nâng bước chân anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực đến đoạn đầu đài. Chiếc chiếu từng tắm máu người con kiên trung
của dân tộc và 6 nghĩa binh của ông ẩn trong nó những huyền thoại bất khuất.
Liên
quan đến chiếc chiếu hoa lịch sử ấy, tư liệu ở đền thờ Nguyễn Trung Trực ghi
rằng: Ngày 28/8 âm lịch năm 1868, tại pháp trường Kiên Giang (nay là bùng
binh Bưu điện Rạch Giá), thực dân Pháp tiến hành thi hành án anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực. Khi nhận được hung tin ấy, đồng bào Tà Niên đã cùng nhau
bất kể ngày đêm dệt những chiếc chiếu hoa để kịp đem ra trải đường cho cụ Nguyễn
bước ra pháp trường. Trước giờ hành quyết, đồng bào Tà Niên đã dâng lên cho
cụ Nguyễn một mâm cơm thắm đượm tình quê hương dân tộc. Cảm kích trước tấm
lòng của đồng bào Rạch Giá, cụ Nguyễn đã uống đến ly rượu cuối cùng và ngâm
bài thơ tuyệt mệnh: "Thư kiếm tùng
nhung tự thiếu niên/ Yên gian đởm khí hữu long tuyền/ Anh hùng nhược ngộ vô
dung địa/ Báo hận thâm cừu bất đái thiên".
Câu
chuyện đồng bào Tà Niên vì cảm kích lòng yêu nước và khí phách cụ Nguyễn đã
ngày đêm dệt chiếu hoa lót đường cho vị tướng quên mình vì nghĩa lớn đẹp và
xúc động biết nhường nào. Những tư liệu lịch sử cũng nhấn mạnh rằng không chỉ
dệt chiếu nâng bước người anh hùng, sau khi Nguyễn Trung Trực bị Pháp chém chết
để thị uy, dù rằng kẻ thù tuyên bố sẽ thẳng tay "trảm" bất kỳ ai có
dính líu đến "quân nổi loạn" nhưng đồng bào Tà Niên vẫn bí mật thờ
ông ở đình làng Vĩnh Hòa Đông, sau thờ thêm phó tướng Lâm Quang Ky, người đã cải
trang thành Nguyễn Trung Trực, sẵn sàng hy sinh thân mình để cứu nguy cho chủ
tướng Nguyễn Trung Trực và được người dân suy tôn là "Lê Lai cứu
chúa".
Nhưng
đồng bào Tà Niên là dân tộc nào, họ hiện cư trú ở đâu, vì sao họ lại có ân
tình sâu nặng với anh hùng Nguyễn Trung Trực? Những khúc mắc mà không phải ai
cũng được am tường hiểu tận thôi thúc người viết. Qua trao đổi, ông Đỗ Ngọc
Minh cho biết: Tà Niên không phải là "tộc người kỳ lạ" như ai đó
lầm tưởng. Mà là một địa danh, nơi cư trú đông người Khmer. Địa danh này
thuộc địa phận làng Vĩnh Hòa Đông (xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, Kiên
Giang).
Từ
chia sẻ của ông Minh, chúng tôi biết được rằng Vĩnh Hòa Đông là ngôi làng nằm
bên hữu ngạn sông Cái Bé, nơi nổi tiếng với lịch sử bi hùng, từng lưu dấu
chân anh hùng Nguyễn Trung Trực cùng biết bao nghĩa quân của ông, ngày đêm
thao luyện, vạch mưu bày kế đánh đuổi quân xâm lăng. Tại nơi này, vì mến mộ
tài năng, đức độ của Nguyễn Trung Trực mà người dân Tà Niên gia nhập nghĩa
quân rất đông. Mối ân tình sâu nặng giữa vị tướng kháng Pháp và người dân Tà
Niên được thắt chặt, keo sơn từ những ngày binh biến ấy!
Không
dừng lại ở đó, Vĩnh Hòa Đông còn nổi tiếng bởi nghề dệt chiếu Tà Niên với
nguồn nguyên liệu sẵn có là những bãi bờ vô tận mọc đầy loài lát gon (cói).
Chuyện kể rằng nghề dệt chiếu Tà Niên có từ trước năm 1880, khi vùng đất này
còn chưa có con kinh Ông Hiển từ Rạch Giá đổ ra sông Cái Bé và được người
Khmer gọi là "cro-tiel" (có nghĩa chiếu dệt bằng lác, hoặc cói).
Theo thời gian, do người dân đọc trại mà cụm từ cro-tiel được gọi là Tà Niên.
Chuyện cũng kể rằng thuở ban đầu, người dân Tà Niên chỉ dệt loại chiếu trơn
và giữ màu ngà truyền thống, nghĩa là không lẫy hoa, nhuộm màu. Nhưng từ khi
cụ Nguyễn bị Pháp hành hình vào ngày 27/10/1868, nghề dệt chiếu hoa ở Tà Niên
được hình thành, sắc sảo đến lạ với chữ Thọ màu đỏ không thể thiếu
được.
|
Tượng đài anh hùng Nguyễn Trung Trực tại Rạch
Giá - Kiên Giang
|
Theo
hồi ức truyền đời của những người già Tà Niên kể lại cho lớp con cháu đời
sau, vì thương cụ Nguyễn, cảm kích khí khái, phẩm chất kiên trung của cụ mà
khi hay tin cụ sẽ bị hành quyết, người Tà Niên đã bàn với nhau dệt chiếu nâng
bước người anh hùng đất Việt vào cõi thiên thu. Khi lưỡi đao của kẻ thù bổ xuống,
máu từ cổ người anh hùng phun xuống mặt chiếu Tà Niên, đọng thành hình chữ
Thọ. Thương nhớ cụ Nguyễn, người Tà Niên đã mang chiếc chiếu thấm máu người
anh hùng về lưu thờ và cũng từ đây, nghề dệt chiếu hoa với chữ Thọ không thể
thiếu ở làng chiếu Tà Niên được hình thành.
Chuyện
chiếu Tà Niên thấm máu người anh hùng vị quốc vong thân được ghi rõ trong tư
liệu của Ban Bảo vệ di tích đền thờ Nguyễn Trung Trực với lời nhấn rằng cụ
Nguyễn là anh hùng không để đầu rơi xuống đất: "Khi đao phủ hành án, cụ
đưa tay bưng đầu gắn vào cổ và trừng mắt nhìn bọn Pháp, làm chúng hoảng sợ bỏ
chạy. Nhưng giọt máu của cụ rơi xuống chiếu, hiện thành chữ Thọ với ý nghĩa Kiên
Giang có vị anh hùng bất tử. Như thà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã xúc cảm viết nên:
"Anh hùng cương cảnh phương danh thọ/ Tu sát đê đầu vị tử thân".
Từ
câu chuyện lịch sử bi hùng ấy, nhân lễ giỗ lần thứ 140 ngày sinh của anh hùng
dân tộc Nguyễn Trung Trực (năm 1978), đồng bào Tà Niên ngày nào do nữ
nghệ nhân Lê Thị Sa cùng nhóm thợ giỏi nghề đã dành tâm huyết dệt nên chiếc
chiếu hoa có kích thước khổng lồ dài đến 45m, ngang 1,8m nhằm ôn lại truyền
thống cũng như bày tỏ sự ngưỡng mộ, tôn kính của đồng bào với anh hùng Nguyễn
Trung Trực. Theo ông Minh, chữ Thọ ở chiếu hoa được giải thích theo hai nghĩa,
ý thứ nhất hàm ý rằng "cụ Nguyễn không mất, cụ vì dân vì nước nên cụ
trường thọ, cụ sống mãi trong lòng nhân dân. Nghĩa thứ 2 của chữ Thọ gắn liền
với lời kể truyền đời rằng khi bị Pháp chém đầu, máu cụ Nguyễn chảy xuống
chiếu hoa, tạo thành chữ giống chữ
Thọ".
Hẳn
rằng gần 150 năm trước, khi dệt chiếu nâng bước chân anh hùng Nguyễn Trung
Trực, những cụ ông cụ bà, những bà những chị người Tà Niên đã vừa dệt vừa
khóc thương cho người anh hùng vắn số, mới 30 tuổi nhưng đã phải lên đoạn đầu
đài, phải giã từ cuộc sống. Chính điều này đã thôi thúc nhiều nhà thơ cảm
khái, sáng tác những áng thơ bất hủ, trong đó có một nhà thơ vô danh có đôi dòng
ngắn gọn nhưng súc tích, hàm chứa trọn vẹn chất bi hùng về chiếu hoa Tà Niên
với câu mở đầu rằng "Tà Niên chiếu lệ mà hùng". Chiếu lệ vì thấm
đẫm nước mắt của người dân Tà Niên. "Chiếu lệ mà hùng" vì nâng bước
vị tướng quả cảm hiên ngang trước cái chết!
Một
ngày nào đó, nếu có dịp đến Rạch Giá-Kiên Giang, bạn hãy nhớ câu chuyện hôm
nay, câu chuyện về đồng bào Tà Niên đẫm lệ dệt chiếu nâng bước chân anh hùng
Nguyễn Trung Trực lên đoạn đầu đài đón nhận cái chết đầy dũng khí để rồi sống
mãi trong lòng dân tộc. Hãy dành chút thời gian, hãy đến đình thờ Nguyễn
Trung Trực để viếng mộ cụ, để thắp nén tâm hương tưởng nhớ đến người anh hùng
dân tộc cùng những nghĩa quân từng theo ông đánh Pháp và cũng như ông, hiên
ngang với kẻ thù đến giờ phút cuối cùng.
Và
nếu có thể, bạn hãy đến làng Vĩnh Hòa Đông tìm hiểu về nghề dệt chiếu hoa của
đồng bào Tà Niên nơi này. Hãy đến để cảm nhận, để được rõ vì sao chiếu Tà
Niên vẫn được duy trì đến hôm nay, luôn là mặt hàng nổi tiếng ở Kiên Giang
cũng như đoạt nhiều huy chương vàng qua những cuộc đấu xảo thời thuộc Pháp,
từng tham dự hội chợ Sài Gòn năm 1926, hội chợ Marseille năm 1933…
|