Về Yên Tử, tìm thư quán họ Đàm
Đàm Quang Ngọc - hay Ngọc “sát thủ” - giờ đã 10 phần khác biệt so với
những gì tôi được biết đến hoặc nghe kể về anh ta trước đây. Chỉ duy có
một thứ không thể khác, đó là đôi bàn tay chằng chịt sẹo, ngón giữa bên
phải bị khuyết mất 2 đốt, chứng tích khó thể phai mờ bởi những trận bể
dâu tranh đoạt thủa còn “chọc trời, khuấy nước”.
Thư quán đơn sơ của anh nằm chênh vênh bên sườn núi, thoải theo bậc
đá rêu mốc dẫn đến chùa Giải Oan, lẫn giữa dãy kiốt dài đầy màu sắc bán
đủ thứ tạp hóa phục vụ thập khách đến chơi hội xuân Yên Tử (Quảng Ninh).
Lúc chúng tôi đến, anh Ngọc đang tỉ mẩn làm công việc viết lách quen
thuộc của mình. Xung quanh anh, nhiều đôi mắt ngẩn ngơ ngắm nhìn, nam
phụ lão ấu đủ cả.
Tiết trời chớm xuân nơi núi rừng tê tái lạnh, nhưng vầng trán của
Ngọc “sát thủ” vẫn khẽ rịn mồ hôi khi anh chậm rãi thảo lên tờ giấy lụa
màu vàng chữ Chí bằng tiếng Nôm, dành cho một du khách trẻ là nam sinh
viên năm 2 của học viện Ngoại giao. Bên dưới, anh đề thêm đôi câu đối
bằng chữ Quốc ngữ viết theo lối thư pháp: “Bản lĩnh tài năng nên sự
nghiệp/Nhân hòa đức độ tạo thành công”.
Trước ánh mắt thích thú của những người xung quanh, người đàn ông
trong trang phục thầy đồ đỏ bắt đầu thuyết giảng về lí do anh đề tặng
chữ đó:
“Chữ Chí được ghép bởi 2 chữ: Sĩ trên, Tâm dưới, tức là tâm của kẻ
sĩ. Hễ người học hành, theo đuổi nghiệp bút sách, ắt càng phải có chí
hướng. Người xưa có câu “Hữ chí giả, cảnh thành”, nghĩa là người đã có
chí thời việc chắc phải nên. Chính đức Khổng Tử lúc dạy học trò, cũng
thường lưu tâm về chữ Chí. Tử viết: “Tam quân khả đoạt súy giả, thất phu
bất khả đoạt chí giả”, có nghĩa là đem ba quân giữ một tướng, có khi
giặc còn cướp mất tướng; Chứ đến như đứa thất phu, tuy chỉ một mình
nhưng chí vững thì dầu muôn người cũng không thể nào cướp được chí của
nó. Khi tâm đã sáng, chí đã cao, chẳng lo gì không lên đại sự. Chỉ có
điều đáng sợ là khi chí hướng mình sai lầm mà thôi...”.
Rồi lại một nữ giới tuổi trung niên được họ Đàm thảo tặng chữ An,
cùng lời giải thích: Chữ An bao gồm bộ Miên là mái nhà và bộ Nữ là phụ
nữ, ý nói người con gái ở trong gia đình thì rất an toàn, hoặc một ngôi
nhà có bàn tay quán xuyến của phụ nữ thì luôn an toàn, bình an… Tiếp
theo lại có người được tặng chữ Nhẫn, gồm chữ Đao (con dao) ở trên chữ
Tâm. Được lí giải là trạng thái nhẫn cũng giống như bị dao đâm vào tim,
tuy đau đớn nhưng vẫn phải chịu đựng, không được hành xử hấp tấp vì sẽ
làm cho mũi dao lún sâu hơn. Phải thật bình tĩnh xử lí ắt mọi việc tốt
đẹp sẽ tới…
Đám đông trầm trồ tán thưởng những lời nói như phun châu nhả ngọc của
thư gia họ Đàm, rồi hết người này đến người khác, mỗi người đều nán lại
chờ đợi để cố xin chữ về treo trong nhà. Có người xin chữ phổ thông có ý
nghĩa, nhưng cũng có những người xin chữ là chính tên mình, rồi nhờ
nghệ nhân này luận ra lời hay ý đẹp.
Tôi ngẩn ngơ nghe Ngọc “sát thủ” thuyết giảng về thư pháp mà say sưa
như lạc vào một thế giới khác đầy mê hoặc của những tứ từ thanh tao, của
những cao nhân cả đời thanh bạch… Càng không thể tin nổi người đang nói
lại chính là người từ nhiều năm trước, đã nuôi chí lớn làm… đại ca
giang hồ.
|
Chân dung gã giang hồ hoàn lương nay là ông đồ cho chữ trên non thiêng Yên Tử. |
Những ngày xưa tháng cũ
Ngọc “sát thủ” tên thật là Đàm Quang Ngọc, sinh năm 1978, quê ở
phường Tân An, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Mặc dù dòng dõi nho
gia, từ nhỏ đã được nghe giảng Tam tự kinh, đọc thơ Kiều, bói Lục nhưng
cuộc đời anh bỗng rẽ nhánh khi gói ghém đời trai vào những viễn mộng
ghềnh thác.
Học hết cấp ba, thi đại học không đỗ, anh xếp lại bút nghiên, bỏ mặc
ngoài tai những lời khuyên nhủ, tìm cách vượt biên sang Hồng Kông. Cuộc
sống nơi đất khách đầy những cạm bẫy lọc lừa đã dẫn bước chàng trai trẻ
vào con đường giang hồ tứ chiếng.
Với bản tính lì lợm cùng phương pháp dụng người hợp lí, gã trai Quảng
Ninh “nảy số” nhanh chóng trong khu ngoại ô người Việt, đâm chém bất cứ
ai không ưng và bảo kê hầu hết các mối hàng ra vào chợ. Cứ trượt dài
trong vung lầy tội lỗi, chàng thư sinh xuất thân khoa bảng bị gọi thành
Ngọc “sát thủ” lúc nào không hay. Thủa hưng thịnh, cái tên Ngọc “sát
thủ” xuất hiện ở đâu đám côn đồ dù Hoa hay Việt cũng đều tìm đường lảng
gấp. Chẳng thế mà nhiều cuộc tranh bá đoạt vương, cốt giành địa bàn của
Ngọc không chiến tự nhiên thành…
Cuộc sống của một kẻ ngoài vòng pháp luật rốt cục lại cũng chẳng sung
sướng gì. Những tháng ngày chui nhủi mệt phờ rồi cũng khiến chàng trai
trẻ thèm khát một bữa cơm gia đình. Giữa năm 2004, nghe tin bố mẹ đau
bệnh, ốm yếu, anh mới nhận ra những tình cảm lớn lao trong cuộc sống. Rũ
bỏ tất cả, anh tìm đường trở về nhà…
Ngày về cố hương với Ngọc “sát thủ” chẳng hề dễ dàng. Cùng hai bàn
tay trắng, anh quyết làm lại cuộc đời bằng năng khiếu thơ ấu của mình:
Vẽ tranh. Thời gian đó, khi đôi chân anh rạc rời trên những tuyến phố để
tầm sư học đạo thì cũng là lúc anh mải miết ôn thi lại vào trường ĐH Mỹ
thuật Yết Kiêu (Hà Nội). Thế nhưng, tính yêng hùng thì chưa thể hoàn
toàn ngủ yên. Một lần nữa, những ngóc tối thủ đô lại nghe đến danh tiếng
lạnh lùng của Ngọc “sát thủ”, gắn với những vụ ẩu đả đẫm máu.
Bước ngoặt cuộc đời khi anh bén duyên cùng chị Lê Thị Mưa là con gái
Quảng Ninh, kém chồng gần chục tuổi. Lấy nhau xong, hai vợ chồng dắt díu
nhau sang Bát Tràng (Hà Nội), toan lấy nghiệp vẽ thuê trên các sản phẩm
gốm sứ để mưu sinh nhưng luôn bấp bênh và sóng gió.
Giữa lúc ấy, cô con gái nhỏ ra đời, khó khăn lại tiếp tục dội lên vai
hai vợ chồng. Anh không đi làm thuê nữa mà ở nhà chăm vợ con và vẽ
tranh gốm cho riêng mình. Quyết định này có vẻ liều lĩnh nhưng hóa ra
lại đúng đắn và mở ra những thuận lợi cho anh. Những bức tranh gốm do
anh vẽ ngày càng đẹp và bắt mắt hơn.
Những ngày tháng khó khăn nhất của hai vợ chồng cũng dần qua, khách
quen ngày càng nhiều, những người khách ái mộ tài hoa và sự niềm nở của
gia đình anh lại giới thiệu thêm những khách hàng mới. Một đồn hai, hai
đồn ba, cứ thế những bức tranh gốm của anh ngày càng đi xa.
|
Chữ Chí với rất nhiều ý nghĩa được viết ra bởi nhà thư pháp Đàm Quang Ngọc |
Trải lòng qua từng con chữ
Khi khách đã ngớt, anh Ngọc mới có thời gian ngồi hàn huyên với chúng
tôi. Nhớ lại một thời dâu bể của mình, anh cười chua chát: “Nếu không
có cái nghề vẽ tranh viết chữ, có lẽ giờ tôi vẫn còn đang dật dờ ở đâu
đó. Mấy năm trước về làng, có người còn không nhận ra, họ tưởng tôi đã
chết bờ chết bụi ở đâu rồi”.
Theo lời kể, sau chuỗi ngày cơ hàn nơi đất khách quê người, có trong
tay chút vốn liếng, vợ chồng anh khăn gói về quê mưu sinh và tìm về đất
Phật Yên Tử. Sau bao nhiêu năm phiêu bạt xứ người, lần trở về này của
anh Ngọc khác hẳn với những gì tâm trí người Quảng Ninh còn lưu giữ.
Trong bộ áo the khăn xếp, anh may mắn được Ban quản lí Di tích &
rừng quốc gia Yên Tử sắp xếp cho một vị trí ngồi viết chữ thư pháp ở lối
lên đền Giải Oan trong khuôn viên lễ hội.
Thời gian đầu, anh gặp khó khăn bởi khách ít, lại chật vật với khoản
kinh phí mua bút mực. Nhưng anh không nản bởi anh coi thư pháp như một
người bạn luôn gắn liền với tâm hồn. Khi đọc những câu thơ đúng với tâm
ý, anh liền cầm bút để thổi hồn và chia sẻ nỗi lòng mình trên từng trang
giấy. Dần dà, thư quán của anh thành một địa chỉ quen thuộc của những
người yêu thích nghệ thuật thư pháp. Anh cũng vinh dự được kết nạp vào
CLB Nghệ thuật thư pháp Phương Nam, nơi có những thư gia tài hoa hàng
đầu cả nước.
Có gian nan, thử thách, con người mới có thêm động lực để tiếp tục
cháy với đam mê của mình. Giờ đây, cuộc sống hai vợ chồng anh giờ đã đi
vào ổn định, kinh tế cũng được xếp vào dạng khá giả trong làng. Điều đặc
biệt là cả hai cô con gái của anh đều thích thú xem bố viết chữ.
Anh tâm sự, với những con chữ viết ra, chiêm nghiệm chúng vào những
bài toán cuộc đời, nhìn chữ bằng ánh mắt khiêm nhường và trái tim trong
sáng, anh mới thấy hết sự thâm thúy trong cách dùng ngôn từ của người
xưa. Đó cũng chính là cái “đạo” của chữ, mà cũng là cái đạo của người
chơi chữ vậy...
Theo laodong.com.vn