Làng tranh Đông Hồ là làng nghề nổi
tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương
chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là
cầu Hồ.
Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.
Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông
Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm
mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê
ra đến mép nước giờ khá xa.
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là
tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam với
xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán,
người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ,
dùng tranh mới. Thơ Tú Xương về tranh Đông Hồ ngày Tết có câu:
Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Loẹt lòe trên vách bức tranh gà
Ngoài các đặc điểm về đường nét và
bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu
giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền
nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ
bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền
tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột
nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó.
Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự
nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng,
có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp. Màu sắc
sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay
than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ
vang), v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng
màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh Đông Hồ chỉ
dùng tới 4 màu mà thôi.
Cái làm nên nét đặc sắc độc đáo của
tranh Đông Hồ chính là chất liệu làm tranh, được chế biến thủ công từ
các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên: Giấy làm từ cây dó, màu đỏ từ
gạch non, màu vàng từ hoa điệp vàng, màu đen từ lá tre đốt, màu trắng
được nghiền từ vỏ sò, ốc… Trên cơ sở những màu sắc cơ bản ấy người dân
đã tạo thêm nhiều màu sắc khác nhau từ việc trộn lẫn các màu. Để hoàn
thành một sản phẩm, không kể khâu khắc tranh trên bản gỗ, có sẵn giấy và
màu, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận trong từng giai đoạn:
sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quết điệp rồi lại phơi giấy cho
khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5
lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ thế, dưới ánh sáng mặt trời lấp
lánh từng hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt
của người dân, những hình ảnh của cuộc sống thường ngày ... như “bừng”
sáng trên giấy dó. Mọi giai đoạn đều thật công phu nên đòi hỏi người làm
tranh luôn cẩn trọng, cầu kì, chú ý đến từng chi tiết nhỏ để có được
một bức tranh đẹp.
Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ
cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường,
hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Tranh Đông Hồ xuất xứ từ làng Đông
Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Làng Mái là tên gọi
dân gian xưa kia của làng tranh Đông Hồ bây giờ. Vào thế kỷ XVI tranh
Đông Hồ xuất hiện nhưng không ai thống kê hết được có bao nhiêu mẫu
tranh mà chỉ biết gồm có 5 loại là: Tranh thờ, Tranh lịch sử, Tranh chúc
tụng, Tranh sinh hoạt và Truyện tranh. Từ cuối thế kỷ XIX đến 1944 là
thời kì cực thịnh của làng tranh. Lúc ấy, trong làng có 17 dòng họ thì
tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên, cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hàng
năm là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết, khắp làng rực
rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được người
dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ
xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp….Không
khí trong làng rộn rạo từ sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế.
Mỗi năm, chợ tranh chỉ nhộn nhịp và tấp
nập nhất vào tháng Chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11,16, 21 và 26. Bà
con, du khách thập phương đổ về mua tranh đông vui, tấp nập. Hàng
nghìn, hàng triệu bức tranh các loại được mang ra xếp gọn lại bán cho
những lái buôn, hoặc bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh treo tết
để mang phú quý, vinh hoa cho nhà mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng
(26/12 âm lịch) những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất đi
chờ đến mùa tranh năm sau lại mang ra chợ tranh bán. Đến chợ tranh làng
Hồ không chỉ có khách buôn và mua tranh, mà có cả những người hâm mộ
nghệ thuật tranh dân gian thích thăm thú, xem tranh và đi trảy hội mùa
xuân.
Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu
bền và có sức cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng
như du khách nước ngoài cũng bởi những đề tài trên tranh phản ánh đậm
chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá người
Việt. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích về ý nghĩa của việc dùng
màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh
đánh ghen để lột tả được cái nóng giận bực bội ngột ngạt của không khí
lúc đó, nền màu vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức
tranh ngày tết, nền màu hồng nhạt cho tranh làng quê yên bình …
Đôi
khi những bức tranh Đông Hồ còn được những nghệ nhân trang trí kèm theo
những từ chỉ dẫn hoặc những tứ thơ tình tứ, lãng mạn,
Cứ bóc tách
từng lớp nang văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng
ta thấy vốn liếng văn hoá Việt thuần khiết và trong sáng, đa dạng và vô
cùng độc đáo.
Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay -
ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào
tranh dân gian với những cách thể hiện rất riêng:
Những ai đã
yêu thích tranh Đông Hồ hẳn rất quen thuộc với các tranh gà: Gà mẹ con,
gà đại cát, gà dạ xướng, kê cúc. Chẳng hạn bức "Gà thủ hùng".
Theo
sử sách xưa kể lại, vào khoảng năm 1915 cụ Chánh Hoàn gả con gái cho
một anh Phán, Cụ Đám Giác ( tên thật là Nguyễn Thể Thức (1882 - 1943)
là một nghệ nhân sáng tác nổi tiếng của Đông Hồ. Ngoài tranh về cuộc
sống ở nông thôn cụ còn vẽ nhiều tranh truyện tranh phong cảnh, tranh tố
nữ...)đã mừng đám cưới bằng một mẫu tranh mới: một gia đình gà gồm gà
trống, gà mái và đàn con. Bằng ngôn ngữ ước lệ, các con gà được cách
điệu hóa, chúng sống động mà không cần giống thực. Gà mái có bố cục theo
đường xoắn ốc - tạo nên sự nũng nịu. Gà trống được đặt trong một hình
thang, đáy lớn nằm trên - tạo nên tư thế chủ gia đình, che chở cho gà
mái và đàn con. Bức tranh gợi không khí hạnh phúc, đầm ấm trong một gia
đình. Trên tranh có dòng chữ nôm "Lắm con nhiều cháu, giống cánh giống
lông" một lời chúc thật sâu sắc! Bức tranh này được xây dựng từ câu
phương ngôn: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh".
Con trâu "đầu cơ nghiệp của nhà nông",
cũng được các nghệ nhân Đông Hồ dành nhiều tâm huyết.Tranh cưỡi trâu
thổi sáo có chữ: "Hà diệp cái thanh thanh" (Lọng lá sen xanh xanh). Một
tàu lá sen dựng đứng như chiếc ô - ý tưởng thật thú vị. Con trâu nghển
cổ thưởng thức tiếng sáo, tư thế, dáng vẻ của nó khiến ta cùng nghe thấy
tiếng sáo réo rắt, thấy bầu trời trong xanh lồng lộng, thấy cuộc sống
thanh bình...
Tranh cưỡi trâu thả diều có chữ "Vũ thu phong nhất
tướng" (Một hình ảnh gió thu múa). Một cậu bé nằm ngửa trên lưng trâu
thả diều... thật thú vị. Một câu phương ngôn về trẻ chăn trâu: " Đầu đội
nón mé như lộng che - Tay cầm cành tre như roi ngựa". Thực tế khó có
thể nằm trên lưng trâu mà dong các diều bằng nón mê như vậy? Thế mà ngắm
tranh ta vẫn thấy khoái! Bức tranh thả diều còn có hai dị bản khác, một
bức có chữ "Vũ thu phong nhất dực" (gió thu múa, một cánh), bức kia có
chữ "Nhất tương phúc lộc điền" (một hạnh phúc của nhà nông) - cũng thú
vị không kém.
Xuất phát từ câu phương ngôn: "Tre già măng mọc"
nghệ nhân Nguyễn Thể Thức có đôi tranh, bức thứ nhất có tên: "Cử chỉ hữu
cương thường", trên đó có câu thơ: "Tre già dẻo đã có thì - còn phần
tráng trực để tùy người sau". Bức kia có tên: "Kim ngân hóa luật lệ" với
câu thơ: "Lệ luật thì giáp là trên - Kim ngân hóa ắt vượt lên ai bì".
Trải
qua nhiều thăng trầm, lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một,
làng tranh cũng thay đổi nhiều: Trong những năm kháng chiến chống pháp,
khi cả nước điêu linh, Đông Hồ cũng rơi vào cảnh đạn bom lay lắt, làng
tranh bị giặc đốt phá tan hoang, người dân trong làng lo chạy loạn khắp
nơi, các bản khắc tranh cũng bị thiêu cháy rụi. Nghề tranh từ đó cũng bị
gián đoạn. Hoà bình lập lại (1954) làng tranh được khôi phục. Nhiều tổ
hợp tác sản xuất tranh Đông Hồ được thành lập, đây cũng là thời điểm
tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước XHCN đạt kết quả cao. Nhưng
từ năm 1985- 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm
mỹ của người dân thay đổi, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn.
Người dân làng tranh chuyển dần sang làm hàng mã. Nghề làm tranh tồn tại
yếu ớt, chỉ còn lẻ tẻ một vài gia đình bám trụ với nghề tranh như: gia
đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia đình ông Nguyễn Hữu Sam… Đến nay, nhờ công
gìn giữ của các nghệ nhân ấy mà tranh dân gian này được khôi phục lại.
Cùng với nhiều sáng tạo mới mẻ, tranh dân gian Đông Hồ lại chiếm được
cảm tình của nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến
mảnh đất văn vật hữu tình này.
theo quevo.org.vn