Thời tiền sử: những
sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu thường thô có
pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn đơn giản
ở phía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân chải răng lược... Các hoa
văn này được tạo ra khi sản phẩm còn ướt, một số được tạo bằng bàn dập
hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch.
Các nhà chuyên môn cho rằng trong suốt thời gian dài, từ lúc phát
minh ra đồ gốm tới đầu thời kỳ đồ đồng, phần lớn gốm được hình thành bởi
bàn tay của phụ nữ (vân tay để lại trên sản phẩm cho thấy điều đó);
được nung ngoài trời, nhiệt độ thường dưới 700ºC. Các sản phẩm gốm thời
kỳ này là đồ đựng, đồ đun nấu, về cuối ta thấy xuất hiện thêm các loại
đồ dùng để ăn uống, trang sức.
Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết
các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo,
do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài
các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ
ăn uống, trang sức, công cụ lao động và gốm mỹ thuật. Về trang trí, gốm
đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nét chìm là chính. Một số sản
phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màu nhưng chưa phải men. Các
hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạn này có ảnh hưởng
đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.
Thời đại đồ sắt: gốm đất nung được sản xuất hầu như khắp các vùng
trong nước. Chất lượng gốm còn non lửa và vẫn thô sơ nhưng về tạo dáng
và trang trí thì chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Hiện vật
thời kỳ này cho thấy nghề gốm vẫn gắn bó với nghề nông nhưng nam giới
đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất.
Đến thế kỷ 2 trước Công nguyên Việt Nam bị rơi vào ách thống trị của
phong kiến phương Bắc. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm
cổ truyền, có tiếp thu ảnh hưởng của gốm Trung Hoa. Về chủng loại sản
phẩm, xuất hiện thêm loại gốm kiến trúc như gạch, ngói. Ngoài ra còn có
các tượng động vật nhỏ như lợn, bò với kiểu nặn sơ sài. Phong cách gốm
thời kỳ này mang phong cách Hán hoặc kết hợp hoa văn Việt và hoa văn
Hán. Nhiều sản phẩm gốm Hán khác được cải biên theo phong cách Việt.
Thời Lý - Trần: thế kỷ 10 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Việt
Nam. Thời kỳ phục hồi độc lập dân tộc sau hơn mười thế kỷ đô hộ của
phong kiến Trung Hoa. Suốt bốn thế kỷ, từ nhà Lý sang nhà Trần, đồ gốm
đạt được những thành tựu rực rỡ. Quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm,
chất liệu... đều được mở rộng. Nhiều loại men được ứng dụng và ổn định
về công nghệ. Đặc biệt men trắng cũng xuất hiện ở thời kỳ này ngoài men
tro và men đất. Ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của đồ gốm là hình dáng,
hoa văn trang trí, men màu. Sự phát triển của kỹ thuật và trình độ thẩm
mỹ cao đã tạo nên sản phẩm gốm thời kỳ này có ba loại nổi tiếng là gốm
men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc.
Về tạo dáng gốm Lý - Trần ngoài những hình mẫu trong thiên nhiên như
hoa, quả là cách tạo dáng của những đồ đồng trước đó. Trang trí trên gốm
Lý - Trần, hoa văn hình học chiếm vị trí phụ. Những hoạ tiết chính ở
đây là hoa lá, chim, thú, người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản
dị, mộc mạc rất gần gũi với thiên nhiên và con người Việt Nam. Một đặc
điểm nữa là nét chìm được làm "bè" ra, một bên rõ cạnh, một bên biến dần
vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồn men, tạo nên độ đậm nhạt cho hoạ tiết
như trên gốm men ngọc hoặc làm giới hạn để tô nâu.
Về kỹ thuật, lò nung cho gốm thời Lý - Trần có một bước tiến lớn như
việc sử dụng các lò cóc, lò nằm, có khi cả lò rồng để nâng nhiệt độ nung
cho sản phẩm lên đến 1200ºC – 1280ºC. Việc sử dụng bao nung và kỹ thuật
nung chồng bằng con kê (lòng dong) được ứng dụng rộng rãi đối với nhiều
loại sản phẩm đã cho thấy đạt trình độ sản xuất gốm cao cấp, nhất là
gốm men ngọc. Nhiều địa phương sản xuất gốm ở Thanh Hoá, Hà Nội, vùng
Nam Định... chứng tỏ sự hình thành gốm tập trung và mang tính chuyên
nghiệp.
Gốm Lý - Trần đã tạo nên sự chuyển hoá bước đầu giữa yêu cầu sử dụng
với chất liệu. Điều này nó thể hiện bước tiến bộ về mặt kỹ thuật và nghệ
thuật, phản ánh tư tưởng duy lý trong quá trình sáng tạo gốm và ứng
dụng nó vào đời sống một cách tốt đẹp nhất, phù hợp nhất.
Sau thế kỷ 14: nhiều trung tâm sản xuất gốm chuyên môn hoá nổi
tiếng như Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh, Hàm Rồng, Mỹ Thiện,
Phú Vinh... chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của nghề. Nhiều sản phẩm gốm ghi
lại địa phương, ngày tháng và người sáng tạo ra nó. Nhiều quốc gia đã
nhập gốm từ Việt Nam, đặc biệt thợ giỏi của Nhật Bản còn bắt chước gốm
của Việt Nam.
Tiêu biểu cho kỹ thuật và nghệ thuật gốm Việt Nam thời kỳ này là gốm hoa
lam; gốm chạm đắp nổi tinh tế, có bản sắc riêng. Ngoài ra còn có loại
gốm vẽ men mà người Nhật thời đó trong trà đạo rất ưa chuộng, gọi là
"Hồng An Nam".
Về kỹ thuật, các loại lò rồng cỡ lớn đã được sử dụng khá rộng rãi, nhiệt
độ và chế độ nung, điều khiển lửa một cách chủ động. Loại men tro trấu,
tro cây được dùng nhiều. Kỹ thuật vẽ hoa đã đạt tới trình độ thành
thục, nét trang trí phóng bút mang nhiều chất hội hoạ.
Đến thời Gia Long (đầu thế kỷ 19), nghề gốm có dấu hiệu xuống dốc bởi
việc nhập gốm từ Trung Hoa theo các đơn đặt hàng của triều đình Huế.
Một vài cơ sở sản xuất gốm ở Biên Hoà, Lái Thiêu đã phát triển một loại
gốm men lửa trung (thường gọi là gốm Biên Hoà) được sử dụng khá rộng rãi
ở các địa phương lân cận. Đầu thế kỷ 20, ở miền Bắc, một vài cơ sở đã
nhập thiết bị từ nước ngoài và nghiên cứu sản xuất đồ sứ, nhưng kết quả
không đáng kể.
Trong những năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, người Việt Nam không
có điều kiện để phát triển nghề thủ công nói chung và nghề gốm nói
riêng. Nghề gốm bị sa sút và có lúc tưởng chừng bị mất nghề. Sau ngày
đất nước thống nhất, hầu hết các nghề thủ công được hồi sinh, trong đó
nghề gốm là một nghề đã được khôi phục và phát triển rất nhanh. Nhiều
trung tâm gốm trở lại hoạt động sôi nổi và rất năng động như Bát Tràng,
Đông Triều, Phù Lãng, Biên Hoà... May mắn thay, các lớp nghệ nhân cũ vẫn
còn và các lớp nghệ nhân mới đang xuất hiện. Sản phẩm gốm của Việt Nam
từ lâu đã là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và hôm nay nó còn là
một mặt hàng lưu niệm không thể thiếu đối với nhiều du khách gần xa.
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam