Do
nhu cầu của tục chơi tranh Tết và thờ cúng, tranh dân gian phải có số
lượng lớn nên người Việt Nam từ lâu đã biết đến kỹ thuật khắc ván để in.
Vào thời Lý (thế kỷ 12) đã có những gia đình chuyên làm nghề khắc ván.
Cuối thời Trần đã in được tiền giấy. Đến thời Lê Sơ lại tiếp thu thêm kỹ
thuật khắc ván in của Trung Quốc và cải tiến thêm một bước nữa. Cũng từ
đây, trong dòng chảy của mỹ thuật truyền thống - dân gian bắt đầu có sự
phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.
Trong bối cảnh đó, đến thời Mạc (thế kỷ 16) tranh dân gian phát triển
khá mạnh, được cả các tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng
vào dịp Tết mà bài thơ Tứ thời khuê vịnh của nhà thơ đương thời Hoàng Sơ
Khải đã xác nhận sự hiện diện của các loại tranh thờ, tranh gà và tranh
Tố nữ:
"Chung Quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương"
Đến thế kỷ 18 - 19 tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao.
Bảo tàng Lịch Sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng
thứ 4 (tức 1823). Địa bàn làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo
phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên vật liệu làm tranh, có
thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh sản xuất.
Mỗi dòng tranh có một phong cách riêng, song tất cả đều được dựng hình
theo kiểu "đơn tuyến bình đồ" dùng nét khoanh lấy các mảng màu và bao
lại toàn hình. Với lối dựng hình "thuận tay hay mắt", tranh dân gian
không phụ thuộc vào viễn cận một điểm nhìn mà được diễn tả theo lối quan
sát di động với nhiều góc độ khác nhau. Thần thánh luôn được vẽ to ở
giữa, phía trên, còn người bình thường thì sàn sàn nhau, con vật và cảnh
sắc thì tuỳ tương quan mà vẽ to hay nhỏ để bức tranh gây ấn tượng sâu
sắc.
Trong giao lưu văn hoá, tranh dân gian Việt Nam vừa phát triển những vốn
quý của các thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa của
các dòng tranh khác để rồi khẳng định những gì thích hợp với dân tộc,
làm phong phú hơn bản sắc của mình.
Ngày nay, tranh dân gian đã bị tranh hiện đại lấn át, hầu hết đã thất
truyền. Tuy nhiên, có một dòng tranh vẫn còn tồn tại trước những thử
thách của thời gian, như tranh Đồng Hồ. Dòng tranh này không những có
chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và đang có mặt ở nhiều nước trên thế giới
như Nhật, Pháp, Mỹ...
Tranh Đông Hồ
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch, có lề
Có sông tắm mát, có nghề làm tranh"
Đó là câu ca xa xưa của một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, thuộc Kinh Bắc xưa.
Người
dân làng Hồ khi nhớ đến câu ca dao ấy, lòng thấy tự hào về nghề tranh
của mình đã một thời hưng thịnh, kéo dài từ cuối thế kỷ 17 đến nửa thế
kỷ 19. Trải qua bao thời loạn ly, tranh vẫn được duy trì, tồn tại đến
ngày nay. Tranh Đông Hồ, từ tranh vẽ đến tranh in thủ công, đều mang một
phong cách riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất và chế
biến màu rồi đến in vẽ tranh, đều có những khác biệt hợp thành cái độc
đáo về kỹ thuật, mỹ thuật của một dòng tranh. Màu in tranh ở đây được
chế biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: màu trắng từ sò, điệp;
đen từ than rơm hay lá tre; hồng từ gỗ vang; đỏ từ son; xanh từ gỉ đồng;
lam từ lá chàm; vàng từ hoa hoè, quả dành dành... Kỹ thuật pha màu và
in của tranh làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng, óng xốp.
Về đề tài của tranh khá phong phú, nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ
xã hội ở nơi thôn dã và luôn được thay đổi hay bổ sung. Thời phong kiến
có tranh cóc, chuột, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Thời
Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ lân, văn minh tiến bộ, phong tục cải lương,
nhảy đầm... Đến thời kỳ kháng chiến có Việt Nam độc lập, sản xuất tự
túc, bình dân học vụ, rồng lửa Thăng Long, bắt sống giặc lái máy bay,
được mùa lúa xuân, lúa ngô khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng..
Ngày trước, cứ đến Tết dường như nhà nào ở nông thôn vùng Bắc Bộ cũng
có một vài tờ tranh Đông Hồ, nó làm bừng sáng những căn nhà đơn sơ,
thấp bé nhưng là tổ ấm của gia đình. Bức tranh ngày tết cùng góp vui và
reo lên những tiếng cười trong trẻo trong cuộc sống khốn khó của người
dân thôn quê Việt Nam. Tranh Đông Hồ phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng và
những ước mơ bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân.
Những nghệ nhân vẽ tranh cùng cảnh nghèo khó như bao người dân lao động
nghèo khó khác. Do vậy tranh ở đây thật sự đã gây được ấn tượng sâu sắc
và sự hâm mộ của họ. Có lẽ vì thế mà tranh được sản xuất, bán ra khá
nhiều và rộng khắp từ các chợ làng quê đến thành thị ở mọi miền đất
nước. Năm này qua năm khác, sau mỗi mùa gặt hái, người ta lại nhắc nhở
nhau:
"Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng sáu tháng chạp nhớ về buôn tranh"
Tranh Hàng Trống
Dòng tranh Hàng Trống phát triển ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón (Hà
Nội). Cách diễn hình tinh vi, phong phú trong khuôn khổ bức tranh và
trong nhiều loại tranh. Khuynh hướng tranh trục cuốn phương Đông được sử
dụng mạnh mẽ nhằm tạo không gian có nhiều mảng trống, gợi cảm và thanh
cảnh theo thị hiếu của dân thành thị.
Tranh
Hàng Trống nét mảnh, tinh, yểu điệu. Do sử dụng được mầu phẩm nên hoà
sắc của tranh Hàng Trống rất phong phú, gợi được khối của không gian.
Mầu thường là lam - hồng, có thêm lục - đỏ, da cam - vàng. Mầu phẩm tô
bằng tay sau khi đã in các nét đen, pha ít hay nhiều nước mà có màu đậm
nhạt. Tranh chỉ tạo khối ở nhân vật, không có khái niệm về không gian
xa, gần.
Các tác phẩm tranh dân gian nổi tiếng như: Lý ngư vọng nguyệt, Thất
đồng, Ngũ hổ, Tố nữ; bộ tranh truyện: Hoa Tiêu, Kiều... bộ tranh về cảnh
dạy học, cảnh nhà nông hay các kiểu khác: canh, tiều, ngư, mục (nhà
nông, tiều phu, đánh cá, chăn trâu); các tranh thờ: Tam toà Thánh Mẫu,
Phật, Tứ phủ, Ngọc hoàng... làm cho dòng tranh có thể sánh ngang với bất
cứ dòng tranh đồ hoạ danh tiếng nào.
Ước vọng hạnh phúc và dùng nhiều mô típ tượng trưng, màu sắc tươi sáng,
nội dung vui vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hoá các khái niệm triết học là
tinh thần chính của dòng đồ hoạ trên, tranh thường được bán vào các dịp
tết âm lịch. Hành nghề có tính phường thợ, cha truyền con nối.
Tranh Kim Hoàng (xã Vân canh, Hoài Đức - Hà Tây)
Bên cạnh hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống, dòng tranh Kim Hoàng phát
triển từ thế kỉ 18 đến thế kỉ 19. Sự hợp nhất hai làng Kim Bảng và
Hoàng Bảng thành Kim Hoàng tiến tới xây dựng đình chung "Trưởng bảng hội
đình" vào ngày 3-2 năm Chính Hoà thứ 22 (1701), cũng có lẽ chuẩn bị cho
bắt đầu của nghề in tranh trong làng. Hàng năm, người Kim Hoàng làm
tranh từ rằm tháng một (tháng 11 âm lịch) đến giáp tết, thoạt đầu thì
cúng tổ nghề. Các ván in do một chủ phường có tài năng vẽ và khắc. Sau
ngày giỗ tổ mới phát cho các gia đình. Trong quá trình in họ trao đổi
ván cho nhau. Hết mùa tranh họ lại giao ván cho các chủ phường khác cất
giữ.
Tranh Kim Hoàng cũng đủ loại tranh thờ cúng, chúc tụng như một số
dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hoàng
lại kết hợp được nhiều ưu điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hoàng có
nét khắc thanh mảnh, tỷ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh
Hàng Trống. Về màu, tranh Kim Hoàng dùng mực tàu, trắng là thạch cao,
phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hoà với nước chàm và các màu hoá học.
Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến
như tranh Hàng Trống mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu
vàng. Tranh lợn bột in hình con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất
ngộ nghĩnh giống như những con lợn đất bán ở chợ, trên nền giấy đỏ tạo
một vẻ đẹp riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hoàng.
Tương truyền, dòng họ Nguyễn Sĩ là dòng họ làm tranh sơ khởi người Thanh
Hoá theo mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở đây. Trận lụt năm 1915 làng
mạc ngập trắng từ Phùng đến Cầu Giấy, cuốn trôi nhiều ván in tranh của
làng. Tranh Kim Hoàng dần bị thất truyền, đến năm 1945 thì hoàn toàn
không còn sản xuất nữa. Ngày nay, một vài ván in của dòng tranh này còn
được lưu giữ ở bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam.
Tranh làng Sình
Làng Sình có tên chữ là Lại Ân thuộc tổng Hoài Tài, huyện Tư Vang, phủ
Triệu Phong, xứ Thuận Hoá, Phú Vang. Làng nằm ở ven bờ Nam hạ lưu sông
Hương, cách Huế không xa (bên kia sông Bảo Vĩnh). Làng Sình nổi tiếng về
hội vật mùng mười tháng giêng. Nhưng làng Sình còn nổi tiếng về một
nghề làm tranh thờ in ván khắc. Trước kia hầu hết tranh thờ in ván bày
bán ở chợ vùng này là do dân làng Sình làm, nên gọi là "tranh Sình".
Thời hưng thịnh của tranh Sình, những người trong các gia đình ở đây đều
biết in và tô màu cho tranh. Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà hoặc
bán cho hàng mã ở chợ, có khi được đặt từ trước. Giấy in tranh là giấy
mộc, màu trước kia lấy màu từ tự nhiên (thực vật, kim loại, sò điệp),
sau là phẩm hoá học gồm các màu cơ bản đỏ, vàng, xanh và đen. Bản khắc
từ gỗ mít. Tranh ở đây in lối ngửa ván rồi dùng tay vuốt giấy cho phẳng,
in lấy một nét và mảng đen, sau dựa vào đấy mà tô màu. Một số tranh in
đen xong là hoàn chỉnh.
Tranh Sình chủ yếu là tranh thờ, tranh cúng lễ phục vụ tín ngưỡng dân
gian. Tranh làng Sình có khoảng 50 đề tài khác nhau, phản ánh tín ngưỡng
cổ sơ, tư tưởng của người Việt cổ trước một thiên nhiên hoang sơ, thần
bí. Cuộc sống của con người bị chi phối bởi nhiều tai hoạ nên họ cần đến
sự che chở của thần linh. Người ta cúng tranh để cầu mong người yên,
vật thịnh, phụ nữ sinh nở được "mẹ tròn con vuông", trẻ nhỏ mau lớn,
người ốm chóng khỏi...
Bên cạnh ý nghĩa thờ cúng, tranh Sình còn khắc hoạ bằng hình ảnh sinh
động những sinh hoạt văn hoá, xã hội, lao động. Nhóm tranh muông thú rất
gần gũi với mọi nhà (lợn, ngựa, voi...), các đồ vật quen thuộc (chậu,
hoa, thuyền bè...). Tranh Sình đơn giản nhưng đẹp một cách bình dị, tự
nhiên. Một trong những đề tài khá phổ biến và đẹp là bộ tranh tố nữ, mỗi
bức vẽ một cô đứng biểu diễn một loại nhạc cụ. Trang phục của các cô
đều giống nhau là áo "mã tiên", áo trắng dài mặc trong, áo cánh màu bận
ngoài, mầu áo có thể thay đổi khi tô màu sao cho vui.
Tranh làng Sình nặng về tính chất thờ cúng, chưa đáp ứng được yêu cầu
thưởng ngoạn của dân gian, chưa phản ánh được niềm lạc quan, yêu đời như
tranh tết, tranh sinh hoạt Đông Hồ. Tranh làng Sình đã bị thất truyền
từ lâu, nhưng dẫu sao thì nó đã có một thời gần gũi với bao gia đình ở
miền Trung.
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam