Gần 4.500 tỷ đồng cho nông nghiệp, nông thôn
Theo Chủ
tịch UBND huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng, nằm ở ven đô, huyện Hoài Đức
có tốc độ đô thị hoá nhanh, tuy nhiên, không tránh khỏi có sự phát triển
tùy tiện, lộn xộn. Thực hiện chương trình xây dựng NTM, huyện đã khắc
phục được những bất cập trên, các vấn đề liên quan đến sản xuất, chuyển
đổi ngành nghề được tập trung giải quyết, góp phần nâng cao đời sống
người dân; xây dựng hạ tầng nông thôn được thực hiện bài bản, hiện đại
hơn vì vậy chỉ trong vài năm, bộ mặt nông thôn huyện Hoài Đức đã có sự
đổi thay sâu sắc.
Chợ nông thôn xã Di Trạch (Hoài Đức) đang được thi công xây dựng trong tháng 9/2013.
Ông Hướng
cho biết, từ năm 2009 đến nay, tổng các nguồn vốn đã đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện đạt gần 4.500 tỷ đồng. So với năm
2009, hệ thống đường trục xã, liên xã đã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa
thêm 30,6 km, nâng tổng số đường được bê tông hoá là: 65,5/75,95 km, đạt
86,2%. Đường trục thôn, xóm, đường ngõ xóm đã được nhân dân đóng góp
tiền của, công sức thực hiện bê tông hóa thêm gần 200 km. Hệ thống điện
nông thôn đã thực hiện xây dựng theo đúng quy hoạch và bàn giao lưới
điện hạ thế cho ngành điện, do vậy chất lượng điện được nâng cao, đảm
bảo yêu cầu kỹ thuật. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các
nguồn điện quốc gia đạt 100%. Cũng từ năm 2009 đến nay, huyện đã đầu tư
xây dựng được 352 phòng học, 110 phòng chức năng; 140 phòng hiệu bộ; 18
nhà thể chất. Đến nay, trường học của 3 cấp học có cơ sở vật chất đạt
chuẩn quốc gia là 29/64 trường, đạt 43,48%, trong đó Tiểu học 18/23
trường, đạt 78,2%; THCS: 9/20 trường, đạt 45%. Các địa phương xây dựng
mới, cải tạo 34 nhà văn hóa thôn, có 68/83 nhà văn hóa đạt chuẩn, đạt
81,9% (năm 2009 mới có 16 nhà văn hóa đạt chuẩn). Hiện nay, các xã đang
đầu tư chỉnh trang các chợ hiện có, chợ xây dựng theo quy hoạch đang
thực hiện các thủ tục đầu tư. Toàn huyện không có nhà tạm, dột nát, tỷ
lệ hộ có nhà ở đạt theo chuẩn của Bộ Xây dựng là 90%, tăng 23% so với
năm 2009. Ông Hướng cũng cho biết thêm, trong quá trình triển khai xây
dựng NTM, nhân dân các xã đã đóng góp 2.450 ngày công, hiến 12.809m2 đất, xây dựng 5 công trình và 1,2 tỷ đồng là vật tư, vật liệu xây dựng.
Tuy nhiên,
ông Hướng vẫn cho rằng, mục tiêu xây dựng NTM không phải chỉ là điện,
đường, trường, trạm, là cơ sở hạ tầng, mà cái chính là nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người dân. Thế nên, bên cạnh việc đầu tư xây
dựng hạ tầng, huyện Hoài Đức đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đời
sống người dân.
Thu nhập của hộ nông dân tăng bền vững
Theo ông
Nguyễn Văn Đức, Phó Chủ tịch UBND huyện, Hoài Đức có khoảng 80% dân số
sống dựa vào nông nghiệp, trong khi 70% đất đai đã và đang được chuyển
đổi mục đích sử dụng. Nếu chỉ sản xuất thuần nông, thoát nghèo đã khó,
nói gì đến chuyện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Vì
vậy, huyện đã chỉ đạo hình thành các vùng chuyên canh rau an toàn, hoa
cây cảnh, cây ăn quả chất lượng cao, mô hình vườn trại... Đến nay đã
hình thành các vùng sản xuất nhãn chín muộn 85 ha, cho thu nhập bình
quân từ 500- 700 triệu đồng/ha/năm; vùng trồng phật thủ tổng diện tích
75 ha, thu nhập bình quân từ 600- 900 triệu đồng/ha/năm; vùng sản xuất
rau an toàn 31 ha, cho thu nhập khoảng 350- 450 triệu đồng/ha/năm; một
số mô hình trồng hoa lan bằng phương pháp nuôi cấy mô... Trong tương lai
không xa, những vùng sản xuất này sẽ mở rộng diện tích gấp 2- 2,5 lần.
Còn theo
ông Đàm Văn Thông- Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, với thế mạnh là mảnh
đất có nhiều nghề truyền thống, huyện Hoài Đức đã đẩy mạnh phát triển
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Các ngành nghề truyền thống và có
thế mạnh của huyện như công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, dệt may
tiếp tục phát triển và chiếm tỷ trọng chính trong cơ cấu giá trị sản
xuất công nghiệp. Đã hình thành một số mô hình sản xuất hiệu quả, giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn. Một trong số đó là mô hình làng
nghề điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng với những sản phẩm đặc sắc như: Tạc
tượng, đồ thờ sơn son thếp vàng, hàng năm giải quyết việc làm thường
xuyên cho trên 5.000 lao động với mức thu nhập từ 40- 50 triệu
đồng/người/năm. Hiện nay, làng có 55 công ty, 395 hộ sản xuất, 252 hộ
sản xuất thương mại dịch vụ, giá trị sản xuất ước đạt 550 tỷ đồng/năm.
Hay như làng nghề dệt kim, bánh kẹo La Phù hàng năm giải quyết việc làm
thường xuyên cho trên 10.000 lao động với mức thu nhập từ 35- 40 triệu
đồng/người/năm. Làng có 115 công ty, trên 1.000 hộ sản xuất, 400 hộ kinh
doanh dịch vụ; giá trị sản xuất ước đạt 800 tỷ đồng/năm. Làng nghề chế
biến thực phẩm Dương Liễu với các sản phẩm bánh kẹo, đồ uống, các loại
tinh bột sắn, miến dong... Toàn xã có 80 công ty, doanh nghiệp, 500 hộ
sản xuất công nghiệp- TTCN, 450 hộ kinh doanh dịch vụ thu hút trên 9.000
lao động, hàng năm tiêu thụ một lượng lớn các sản phẩm nông nghiệp cho
các hộ trong huyện, các huyện, tỉnh lân cận.
Vẫn theo
ông Đàm Văn Thông, đến nay toàn huyện hiện có 6 cụm công nghiệp, 51 làng
nghề. Ngoài ra còn có 1.160 doanh nghiệp vừa và nhỏ và trên 10.000 hộ
sản xuất kinh doanh, buôn bán, hàng năm thu hút, giải quyết việc làm cho
gần 45.000 lao động thời vụ trên địa bàn huyện và khu vực lân cận. Thu
nhập bình quân của người dân trong huyện đã tăng từ 15,0 triệu
đồng/người năm 2009 lên 29,5 triệu đồng/người năm 2012. Cũng trong thời
gian đó, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm từ 5,68% xuống còn 3,33%. Ông
Thông cho biết, huyện đang có kế hoạch phấn đấu đến hết năm 2013 tỷ lệ
hộ nghèo còn 2,51% và giảm tiếp đến năm 2015 chỉ còn 2,0%, thu nhập bình
quân (theo giá hiện hành) tăng lên 34,4 triệu đồng/người/năm và định
hướng đến năm 2020 thu nhập đầu người sẽ là 110,6 triệu đồng/năm.
Theo: Nhabao&Congluan