Bên cạnh đình Tây Đằng, đình Tường Phiêu, đình Mông
Phụ… thì đình làng Hữu Bằng (Thạch Thất, Hà Nội) có vẻ đẹp độc đáo và
lưu giữ trong đó nhiều di sản quý giá.
“Vuông như cả tấm lòng làng”
Cụm
di tích đình, chùa, văn từ Hữu Bằng nằm trên một khu đất vốn như một
bán đảo, xung quanh là những ao lớn. Ao kè đá ong vuông vức. Do biến
thiên của lịch sử, khu di tích chỉ còn lại ao Sen lớn ở phía trước. Kịch
tác gia Tào Mạt người làng này, trong thời gian kháng chiến chống Pháp ở
chiến khu nhớ về quê nhà đã viết “Nhớ hộ ao Sen già nhăn nếp trán/
Vuông như cả tấm lòng làng”.
Đình làng Hữu Bằng
thấp thoáng trong tán cây đa xanh mướt soi bóng xuống ao Sen như một bức
tranh thủy mạc. Bước qua hai trụ biểu lớn, là sân đình, hai bên có tả
mạc và hữu mạc. Đình được xây dựng năm Chính Hòa thứ 10, triều vua Lê Hy
Tông (1689), thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê trung hưng. Ban đầu đình
có kiến trúc như đình Chu Quyến, Tây Đằng, bốn bề thông thoáng, hai bên
có bục gỗ, xung quanh là lan can con tiện, hậu cung ngắn, những đầu đao
trên mái cũng đơn giản, khỏe khoắn.
137 năm
sau, năm Minh Mạng thứ 7 (1826), đây cũng là thời kỳ thịnh trị nhất của
nhà Nguyễn, đình Hữu Bằng được trùng tu lớn. Phía trên nóc đình đắp thêm
lưỡng long triều nguyệt và làm thêm một phần hậu cung kép, vừa tạo vẻ
bề thế, có nhiều góc nhìn đẹp mắt, vừa có chỗ cất chứa tế khí, sắc
phong, hương ước của làng… Hậu cung là phần ống muống dài với thiết kế
hai tầng mái, kết thúc bằng một kết cấu hai tầng tám mái thanh thoát với
những đầu đao mềm mại. Trên mái, chỗ tiếp giáp giữa tòa chính và hậu
cung là máng nước lớn có đắp hình cá chép giương vây như sắp “hóa long”,
cùng với với lưỡng long triều nguyệt là những điểm nhấn tuyệt đẹp.
Đình làng Hữu Bằng năm 1952 (Ảnh tư liệu gia đinh)
Đi
theo cửa chính vào chính điện ta thấy hệ thống hoành phi, câu đối, bát
bửu, ngựa thờ, tàn lọng. Do hậu cung sâu nên không gian thờ tự có không
khí thâm nghiêm, trang trọng. Bức cuốn thư lớn, sơn son thiếp vàng có
bốn chữ “Phổ bác uyên tuyền” (Ca ngợi công đức của Thành hoàng rộng lớn,
sâu xa). Bức cuốn thư được tạo lập năm Bảo Đại thứ 7 (1932) do bà con
phường thịt Hữu Bằng kinh doanh ở Vĩnh Yên cung tiến. Sau bức cuốn thư
là hệ thống cửa võng có ba chữ đại tự “Tối linh từ” (Đình cực thiêng),
hai bên có câu đối “Vũ thí vân hành quang vũ trụ/Càn hoàn khôn chuyển
hiển anh linh” nghĩa là: Mưa xuống, mây bay sáng cả vũ trụ/ Trời tròn,
đất chuyển hiển anh linh). Lớp cửa võng tiếp theo có bốn chữ “Dương
dương tại thượng” (Mênh mông ơn trên) và đôi câu đối rất đặc biệt, hai
vế có hai chữ đối nhau thành tên của làng như sau: “Lịch đại HỮU phong
chân giản sách/ Bách niên BẰNG thức thử cung đình” nghĩa là: Các triều
đại kế tiếp nhau có sắc phong ghi trong sử sách/ Trăm năm chứng cứ ở nơi
như cung đình này.
Đình Hữu Bằng thờ ba vị
Thành hoàng là Thượng đẳng thần Nam Hải đại vương. Đình còn lưu giữ 26
đạo sắc phong, từ năm Cảnh Hưng nhà Lê đến những năm Bảo Đại nhà Nguyễn.
Hệ
thống bia đá của đình còn cho hay, hai chữ “Hữu Bằng” lấy từ Kinh Thi,
trong câu “Hữu bằng, hữu dực, hữu hiếu, hữu đức, khải đễ quân tử, tứ
phương vi tắc” nghĩa là: Có sự tin cậy, có thể giúp đỡ được nhà vua, có
hiếu hạnh, có đạo đức khiến vua vui mừng, đặt phép tắc cho bốn phương.
Xem thế đủ biết, khi đặt tên làng tiền nhân đã gửi gắm vào đó biết bao
khát vọng. Hữu Bằng không chỉ có nghĩa là đáng tin cậy mà là có tài, có
đức.
Một di sản Hán Nôm quí giá nữa của đình Hữu
Bằng là bức biển ngạch “Mỹ tục khả phong” (Tục đẹp, thói hay) do vua Tự
Đức ban tặng năm Đinh Mão (1867). Điểm đặc biệt là biển lớn hơn các
biển ngạch cùng thời và do triều đình Huế gửi về, chứ không phải chỉ gửi
sắc phong và cấp tỉnh chế tác để ban thưởng như lệ thường lúc bấy giờ.
Điều đó chứng tỏ Hữu Bằng đã có những đóng góp, thành tích lớn để được
triều đình tưởng thưởng đặc biệt.
Hậu cung của
đình còn lưu giữ được một tấm bảng gỗ sơn son, chữ đen ghi Hương ước của
làng lập năm Thành Thái thứ ba (1891), thủ bút của cụ đồ Nguyễn Văn
Thuyết. Sau đó làng lại có Hương ước cải lương hương chính ở đầu thế kỷ
20. Hương ước Hữu Bằng được các nhà nghiên cứu đánh giá là có những qui
định khá dân chủ và nhiều nét đặc sắc.
Những giai thoại còn lưu truyền
Một
giai thoại mà người làng Hữu Bằng không mấy ai không biết là trên một
cột đình ở góc phải có năm vết chém. Người ta kể rằng, người cung ứng gỗ
cho dân làng làm đình phải lên miền thượng du rất gian nan để mua gỗ
rồi vận chuyển về, nhưng khi đình đã hoàn thành, dân làng tri ân những
người có đóng góp lớn để bầu làm hậu thần, mãi mãi được dân làng hương
khói, thì không có người cung ứng gỗ. Nguyên do là có người cho rằng,
ông cung ứng gỗ chắc hẳn đã có lãi, như vậy không phải là làm công đức.
Tiện cây dao dài, ông chém ba nhát vào cây cột và thề rằng ông đi mua gỗ
không lấy lãi, nhưng cuối cùng dân làng bàn bạc và không đưa ông vào
làm hậu thần. Cho rằng dân làng không công bằng, ông ra đình chém thêm
hai nhát vào cây cột và thề rằng, ông sẽ bỏ làng ra đi.
Không gian thờ tự của đình hiện nay
Ông
Phan Văn Bốc khi sinh thời có kể rằng, ông là hậu duệ của người cung
ứng gỗ đó, cụ tên là Phan Văn Thành, cụ giận bỏ ra đi nhưng để lại vợ
con, và cụ đến khu đồi Mơ, cách làng vài cây số để lập nghiệp, tạo thành
một chi họ Phan nữa ở đấy. Sau đó ít năm, cụ ra chùa Thầy (Sài Sơn)
sống bằng nghề làm thuốc. Cụ mất tại Sài Sơn được học trò an táng theo
lời dặn lại của cụ, ngay bên chùa Một Mái. Hàng năm con cháu vẫn viếng
mộ cụ… Thật ra, dân làng cũng không quên ơn cụ mà sau đó mỗi khi có cúng
tế, dân làng đều mang cỗ vào biếu gia đình .
Nếu
giai thoại về người cung ứng gỗ nói về thời làm đình thì chuyện giữ
đình cũng được dân làng truyền tụng. Qua nhiều binh lửa chiến tranh,
đình Hữu Bằng vẫn được dân làng gìn giữ nguyên vẹn cho đến nay. Trong
đó, chuyện giữ đình trong thời tiêu thổ kháng chiến còn in đậm trong tâm
trí dân làng. Hồi đó có phong trào phá dỡ các công trình lớn để giặc
Pháp không có chỗ đồn trú. Đình Hữu Bằng cũng thuộc diện phải phá dỡ.
Nghe tin này, các cụ trong làng hết sức lo lắng, vội họp bàn để giữ
đình. Các cụ mời ông Tào Mạt, khi đó là một trong những đại diện chính
quyền đến để phân tích phải trái. Các cụ nhắc rằng xưa nay qua bao cơn
loạn lạc, đình làng chưa bao giờ là nơi đồn trú của giặc do vị trí không
thích hợp, hơn nữa đình là nơi thiêng liêng đối với dân làng nên không
thể phá… Tào Mạt lắng nghe rồi thưa: Hôm đó các cụ cứ như thế mà nói,
chúng cháu sẽ cùng nghe ạ. Ngày dỡ đình, dân làng cử một cụ có nghĩa
khí, nói năng khẳng khái làm người phát ngôn. Các cụ mặc áo the khăn
lượt cùng dân làng đứng chật sân đình, cụ đại diện phân tích mọi điều
hơn thiệt. Cuối cùng việc dỡ đình được hoãn lại. Sau đó, chủ trương tiêu
thổ kháng chiến thay đổi nên đình Hữu Bằng và một số đình trong khu
vực, được bình yên. Câu chuyện về “cụ giữ đình” thường được kể lại như
một biểu tượng của dũng khí và tinh thần đoàn kết trong làng.
Những
năm hợp tác hóa, đình được trưng dụng làm xưởng sản xuất, nhưng sau khi
Đổi mới, đình được trả lại cho dân làng. Bằng công sức và tài lực, vật
lực của cả làng, thập kỷ 90 của thế kỷ 20, đình lại được phục hồi như
dáng vẻ nguyên sơ, trở thành một di tích văn hóa – nghệ thuật quốc gia
được xếp hạng. Một đáng tiếc nhỏ là hai trụ biểu được xây dựng lại khá
thô vụng. Hy vọng, khi có điều kiện hai trụ biểu sẽ được làm lại cho
tương xứng với vẻ đẹp toàn thể của ngôi đình.
Điểm tham quan thú vị
Ngồi
trên bục đình rộng rãi và vững chãi, chúng tôi hiểu rằng nơi mình đang
ngồi đã trải qua nhiều thế kỷ, với biết thế hệ dân làng, các nhà khoa
bảng, chức dịch, hương lão, quan viên… đã ngồi đây để bàn bạc việc làng,
giữ cho những tục đẹp, thói hay được truyền từ đời này sang đời khác.
Đình làng như một già làng cần mẫn, một nhân chứng lịch sử chứng kiến
biết bao niềm vui, nỗi buồn, những thăng trầm dâu bể của thời cuộc, cũng
là nơi an ủi, khích lệ mỗi con dân của làng khi họ cần đến một chỗ dựa
tinh thần. Đình là vì thế vừa thân thiết, đơn sơ lại vừa linh thiêng,
cao quí.
Bên cạnh đình là chùa, chùa có tên chữ
là Vĩnh Phúc tự, cũng được xây dựng thời Lê Chính hòa. Kế bên chùa là
Văn từ, thờ Khổng tử và các nhà khoa bảng của địa phương.
Hữu
Bằng, nằm giữa chùa Thày (Sài Sơn) và chùa Tây Phương, hai danh lam đặc
biệt của xứ Đoài, nên cũng là một điểm tham quan, du lịch hấp dẫn. Một
lần ghé thăm đình Hữu Bằng, lắng nghe tiếng nói của lịch sử vọng về, hỏi
chuyện các bô lão… sẽ là những trải nghiệm thú vị đối với du khách.
Một
trong những vị hậu thần phối thờ ở đình Hữu Bằng là quan Thượng Vòng
Nguyễn Khả Trạc (1598-1672) người xã Dịch Vọng, Từ Liêm. Ông là con rể
quan Phụ quốc thượng tướng Vân quận công ở xã Vĩnh Lộc kế bên. Sau khi
hồi hưu, ông đã làm nhiều công đức cho Hữu Bằng và Vĩnh Lộc, như mua
ruộng hiến cho hai làng “trâu cùng thả, mả cùng chôn” và mua đất xây
dựng chợ Hữu Bằng. Hữu Bằng thờ ông là hậu thần dù ông tạ thế trước khi
xây dựng đình. Hiện nay Hữu Bằng còn lưu giữ được những tấm bia ghi công
đức của ông và vợ con ông nhiều lần xuất tiền ủng hộ việc kiến thiết,
tu bổ đình làng Hữu Bằng.
Theo congly.com.vn