Những năm gần đây, làng rèn Xuân
Phương đã sống lại với nghề, nhiều hộ gia đình ở đây đã tiếp tục giữ lấy, bám
vào nghiệp ông cha để lại và phát triển kinh tế từ nghề truyền thống này.
Xuân Phương là một trong bốn vùng danh
tiếng của huyện Từ Liêm xưa “Mỗ, La, Canh, Cót” có truyền thống văn hoá và nổi
tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống. So với các nghề thủ công khác ở
Xuân Phương, nghề rèn tuy ra đời sau nhưng phát triển khá mạnh mẽ.
Cùng với thời gian, nghề rèn Xuân
Phương cũng dần mai một, những thợ rèn tay nghề cao còn lại rất ít, trong khi
lớp trẻ lại không mấy người mặn mà với cái nghề “khổ sai” này...
Máy móc hiện
đại đã giúp làng rèn sản xuất lớn.
Trăn trở giữ nghề
Dọc theo Quốc lộ 32 đến ngã tư Nhổn,
rẽ theo hướng quốc lộ 70 về phía Hà Đông, chúng tôi đến với làng rèn Hoè Thị
(xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Ngay từ đầu làng, những âm thanh đặc
trưng của làng rèn đã văng vẳng. Tiếng búa đập sắt xuống đe chan chát, tiếng
mài dao xoèn xoẹt, tiếng quạt thổi lửa chạy vù vù...
Nhưng, đó cũng chỉ là cảm giác, một
ấn tượng ban đầu về không khí đặc trưng ở một làng nghề truyền thống. Bởi, giờ
đây, thật khó để bắt gặp cảnh tượng những người thợ có thân hình rắn rỏi, khoẻ
mạnh, đôi tay thoăn thoắt quai búa tay đôi, tay ba, đều và nhịp nhàng như...
đang múa vậy!
Theo ông Nguyễn Văn Hải, một thợ rèn
có nghề với thâm niên hơn 30 năm cầm búa, trong điều kiện kinh tế thị trường
cạnh tranh gay gắt, cũng như các nghề truyền thống khác, nghề rèn ở Xuân Phương
gặp không ít khó khăn. Có thời điểm, cả làng chỉ có vài hộ còn thường xuyên “đỏ
lửa” hoặc hoạt động cầm chừng . Nguyên nhân là vì sản phẩm làm ra chưa được tiêu
thụ rộng rãi mà chỉ phục vụ cho nhu cầu bà con trong xã và các vùng lân cận. Các
sản phẩm kim khí nhập ngoại từ Trung Quốc hoặc từ các nhà máy lớn trong nước có
giá rẻ hơn đã làm cho các sản phẩm làng rèn không thể cạnh tranh được. Do đó
tìm đầu ra cho sản phẩm là rất khó... “Có chứng kiến cảnh hàng loạt sản phẩm
nào cuốc, cày, nào kìm, búa, nào dao, nào kéo… làm ra được xếp chồng chất ở
hàng rào, trong vườn mới thấy xót xa cho công sức bỏ ra của người thợ rèn.
Nhiều người đã nghĩ: “không lẽ bỏ nghề?”, ông Hải chia sẻ.
Cũng theo ông Hải, lãnh đạo địa phương và bà con cũng rất
trăn trở tìm cách vực dậy làng nghề. Làm thế nào để nó ngày một phát triển lên?
Loay hoay mãi rồi cũng tìm ra được đường đi. Đơn giản là nghề rèn cần phải
được… rèn tiếp, rèn cái gì cũng được, miễn là không để mất nghề. Điều đó có
nghĩa là phải thay đổi cách làm ăn, không manh mún theo lối tư duy cũ, mà phải
nhìn nhận và vận động phù hợp với kinh tế thị trường đầy cạnh tranh.
Hướng đi mới của làng rèn Xuân Phương
Làng rèn
Xuân Phương vẫn "đỏ lửa" dù thị trường cạnh tranh gay gắt.
Đến thăm những lò rèn (hay chính xác
hơn phải gọi là những xưởng rèn) ấn tượng đầu tiên là những cỗ máy dập, máy
cắt, máy tiện… cỡ lớn đang được vận hành bởi những người thợ… rèn. Mặc dù không
còn cảnh những người thợ lực lưỡng, quai những nhát búa “đinh tai, nhức óc” như
“một thời vang bóng”, nhưng nhìn những xưởng rèn đã được “máy hoá”, vận hành
nhịp nhàng để cho ra những sản phẩm phục vụ cho đời sống thì cũng phải ghi nhận
sự “chuyển mình” của làng rèn Xuân Phương trong cuộc mưu sinh theo cách của
mình: giữ lấy, bám vào nghề truyền thống ông cha để lại, để nó còn mãi với thời
gian và tiếp tục phát triển hơn.
Nhớ lại ngày đầu mới chuyển đổi mô
hình sản xuất, anh Phạm Hữu Sơn cho biết, nhờ có sự “mách nước” của một người
bạn, gia đình anh đã chuyển hướng sang làm bu lông, ốc vít cho các ngành điện
lực, đường sắt. “Cũng tưởng chỉ thử nghiệm, ai ngờ, đó lại là sản phẩm chủ đạo
của làng rèn hiện nay”, anh Sơn nói.
Theo nghề rèn đã trên 50 năm, ông
Nguyễn Đắc Vĩnh cho biết, những người cao tuổi như ông, làm túc tắc mãi thành
quen rồi; bây giờ, bảo “bắt nhịp” theo máy móc nghe thấy khó khó… Nhưng các con
ông thì khác, anh nào anh nấy đều mở xưởng rèn rầm rộ và máy hóa hết cả rồi .
Trong làng, hộ nào theo nghề rèn cũng đều sắm máy nhỏ, máy to, chứ ai còn đi
nện nhát một nữa…
Từ khi có các loại máy móc như máy
cán thép, máy đột dập, máy búa, cắt... mỗi người chỉ chuyên làm một công đoạn;
lượng sản phẩm làm ra ngày càng tăng cao, đời sống cũng nhờ thế mà khá lên.
Giờ đây, số hộ bám nghề ở làng rèn
Xuân Phương ngày càng nhiều hơn. Vẫn là những sản phẩm quen thuộc vốn có và
thêm vào hàng chục chủng loại mới: bu lông, ốc vít các loại cho xe ô tô, xe
máy, tàu biển, đường sắt… Hàng hóa tiêu thụ không còn bó hẹp mà đã tỏa đi muôn
nơi.
Đến Xuân Phương, lại thấy nghề rèn
đang hồi sinh, đóng góp phần mình vào công cuộc xây dựng nông thôn mới. Vào
những tinh mơ hay hoàng hôn, cả xã đỏ lửa rèn, tiếng máy, tiếng búa đập chan
chát rộn rã, lại dấy lên niềm vui hạnh phúc của no ấm và ánh mắt cười của những
lão làng của nghề rèn Xuân Phương.
Theo gia phả họ Nguyễn Đắc ở Hoè Thị, vào đời Lê (khoảng
thế kỷ XVII) có ông Nguyễn Đắc Danh, đỗ Hương cống, làm quan tới Tri phủ ở
Thanh Hoá, có người em là Nguyễn Đắc Tài, học được nghề rèn, trở thành thợ
giỏi, về làng truyền nghề cho con cháu rồi phát triển ra khắp cả làng. Những
người làm nghề rèn ở Hoè Thị coi ông là vị Tổ sư của nghề, hàng năm khi lễ
Tổ, mọi người thường khấn “Thanh Hoá tiên sinh tư Đắc Tài”.
|
Theo langviet