Tại hội thảo quốc tế "Mỗi làng một sản phẩm -
OVOP" do Sở Công Thương Hà Nội vừa tổ chức, các đại biểu cho rằng, để mỗi
làng nghề có một sản phẩm đặc trưng cho hoạt động xuất khẩu và tiêu thụ nội
địa, đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM).
Chưa tương xứng với tiềm năng
Để phát huy hiệu quả kinh tế của các làng nghề, thông qua hiệu quả của phong
trào "Mỗi làng một sản phẩm - OVOP" tại Nhật Bản, Thái Lan, Sở Công
Thương Hà Nội đã xây dựng một số mô hình thí điểm và thu được những kết quả
bước đầu. Con số thống kê cho thấy, hiện Hà Nội có 70 làng nghề đạt thu nhập từ
20 - 50 tỷ đồng/năm cơ hội xuất khẩu. Năm 2011, giá trị sản xuất của làng nghề đạt trên 400
triệu USD, chiếm 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
của toàn TP. Tuy nhiên, do hoạt động XTTM chưa thực sự được chú trọng nên phong
trào OVOP vẫn xây dựng đơn lẻ, kết quả phát triển làng nghề chưa tương xứng với
tiềm năng.
Ông Tadashi Uchida, Phó Chủ tịch Hiệp hội giao lưu quốc tế và xúc tiến phong trào
"OVOP Oita" (Nhật Bản) đánh giá, Hà Nội có số lượng làng nghề và các
sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN) phong phú, nhưng hiện lượng du khách quốc tế
đến Hà Nội mới chỉ biết nhiều đến gốm sứ Bát Tràng và một số món ăn đặc trưng
mà không biết nhiều đến các sản phẩm làng nghề khác. Bà Đào Thu Vịnh, Phó Giám
đốc Sở Công Thương Hà Nội thừa nhận: Có như vậy là do hoạt động XTTM tiêu thụ
sản phẩm cho làng nghề và việc liên kết các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế xuất khẩu chè. Bên
cạnh đó, hình thức mẫu mã, sự đồng đều của chất lượng sản phẩm còn yếu kém đang
trở thành rào cản hạn chế khả năng xuất khẩu và tiêu thụ hàng nội địa.
Sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ tại làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm.
Mặc dù ngành du lịch đã xây dựng và quy hoạch 15 làng nghề phát triển theo
hướng kết hợp với du lịch, nhưng người dân các làng nghề còn chưa quen với hình
thức này nên sản phẩm du lịch hiện vẫn còn dựa vào các nguồn tài nguyên có sẵn
cũng là một hạn chế lớn trong việc quảng bá hình ảnh, sản phẩm làng nghề đến
với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại để gỡ khó
Để phát triển được phong trào OVOP, việc hỗ trợ các làng nghề trong hoạt động
XTTM, cải tiến mẫu mã sản phẩm là điều cần thiết.
Ông Lê Bá Ngọc, Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam (Vietcraft) cho rằng: Việt Nam cần tạo
điều kiện cho các làng nghề trong hoạt động XTTM. "Tại Thái Lan, khi các
doanh nghiệp đưa hàng hóa của làng nghề tham gia vào các chương trình XTTM đều
được miễn thuế nhưng ở Việt Nam
chưa có cơ chế này".
Ông Lê Hồng Thăng, Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội kiến nghị, Nhà nước phải có
nhiều cơ chế, chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, trong đó chú trọng
tới chính sách XTTM đối với các sản phẩm OVOP. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
cũng phải tự lực, sáng tạo ra những sản phẩm giá trị, phù hợp với nhu cầu thị trường
và mang bản sắc văn hóa truyền thống.
Nhiều ý kiến cho rằng, để OVOP phát triển, trước hết phải có quy hoạch rõ ràng
để làng nghề có địa điểm sản xuất, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề cần gắn với doanh nghiệp. Chính phủ cần tạo
điều kiện hơn nữa để giúp người dân có vốn quy trình xuất khẩu gỗ. Bởi, hiện nay mặc dù có chính sách
vay vốn với lãi suất ưu đãi cho làng nghề nhưng các thủ tục, cơ chế vay vẫn còn
nhiều khó khăn đối với người dân. Ngành công thương Hà Nội cần xây dựng một
Trung tâm thiết kế và Phát triển sản phẩm để các doanh nghiệp, nhà thiết kế gặp
gỡ, trao đổi và làm việc một cách hiệu quả thông qua các chương trình giao lưu,
liên kết với các đối tác nước ngoài cũng như các khu thiết kế và thực nghiệm
mẫu…
Để phục vụ mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu và giúp các làng nghề tìm đầu ra tiêu
thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề Hà Nội, hiện Sở Công Thương đang
triển khai chương trình XTTM "Mỗi làng một sản phẩm" giai đoạn 2012 -
2015. Thông qua chương trình này, Hà Nội sẽ lựa chọn được các sản phẩm OVOP đạt
chất lượng cao, đáp ứng các nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Xây
dựng thương hiệu OVOP Hà Nội cho các sản phẩm tham gia chương trình OVOP; hình
thành hệ thống tiêu chí chấm điểm, phân loại xếp sao các sản phẩm.
Theo KTĐT