Xã viên HTX Nông lâm nghiệp Ðồng Tâm, huyện Hòa Chung (Cao Bằng) thu hoạch chè. Ảnh: PHÚ XUÂN
Với diện tích tự nhiên hơn 10,14 triệu ha, chiếm 30,3% diện tích
cả nước, nhưng vùng trung du miền núi phía bắc (TDMNPB) hiện vẫn là nơi
khó khăn nhất, với tỷ lệ hộ nghèo gấp đôi bình quân cả nước. Vậy có
cách nào để phát triển nông nghiệp bền vững, góp phần giúp người dân
thoát nghèo.
Khắc phục khó khăn
Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Ðiện Biên, Lai Châu,
Sơn La và Hòa Bình có địa hình cao dốc, chia cắt, khí hậu thời tiết đa
dạng lại diễn biến phức tạp, đặc biệt là hiện tượng rét đậm và sương
muối... đang là những trở ngại lớn. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp
bình quân đầu người là 0,13 ha, đất lâm nghiệp là 0,49 ha, trong khi
khả năng mở rộng hạn chế đã cản trở sản xuất hàng hóa với quy mô lớn và
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nhất là thực hiện công nghiệp
hóa trong nông nghiệp. Tài nguyên rừng đang ngày càng suy kiệt do tình
trạng phá rừng, phát triển thủy điện ồ ạt đe dọa tới nguồn nước và ảnh
hưởng nghiêm trọng tới kinh tế - xã hội và môi trường của toàn vùng.
Dân cư trong vùng tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống, trình độ văn hóa chưa cao, nhận thức hạn chế, năng lực kinh
doanh, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản phẩm cao. Cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn của các địa phương trong vùng còn chậm chuyển
đổi để thích ứng với yêu cầu của thị trường, sản xuất còn mang tính tự
cung tự cấp. Trong khi đó việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ
vào sản xuất nông nghiệp còn ở mức thấp so với yêu cầu phát triển,
nhất là việc ứng dụng các công nghệ cao, công nghệ hiện đại trong tạo
giống cây trồng, bảo quản, chế biến sau thu hoạch... do đó chi phí sản
phẩm cao, tính cạnh tranh hạn chế.
Khai thác lợi thế
Cũng như nhiều vùng quê khác trong cả nước, cơ cấu nông nghiệp của
vùng TDMNPB cơ bản vẫn tập trung vào những loại cây chủ lực có lợi thế
là lúa, ngô, sắn và cây chè. Trong đó sản xuất lúa là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu vì sự an toàn lương thực của toàn vùng. Những năm qua
nhiều loại giống mới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đã được
áp dụng vào sản xuất, như các giống lúa thuần cực ngắn ngày, nhưng cho
năng suất, chất lượng gạo khá ngon, chống chịu sâu bệnh, ngoài ra các
tỉnh TDMNPB còn phát triển nhanh giống lúa chất lượng như Nếp Tú Lệ,
Nàng Hương (Yên Bái), nếp Râu, tẻ Già Dui, Khẩu Mang (Hà Giang); Shén
Cù (Lào Cai),... Hay các giống lúa chịu hạn như CH207 và CH208, cho các
vùng thiếu nước tưới và một số giống lúa cạn thích hợp cho vùng nước
trời như LC93-1; CIRAD 141, các giống lúa lai 2, 3 như HYT 100, HYT 92,
HYT 83, HYT 102, HYT 103, HYT 108, HYT 106. Cho năng suất 7,0-8,0
tấn/ha, chất lượng gạo tốt, lại chống chịu đạo ôn và bạc lá, có thể
gieo trồng cả hai vụ trong năm.
Xuất phát từ phong tục tập quán địa phương, tỉnh nào cũng trồng ngô,
lương thực chính của một số dân tộc vùng cao như H'mông, Dao, Nùng,...
Sản xuất ngô ở vùng này có thể chia làm hai vùng chính: vùng ngô Ðông
Bắc và vùng ngô Tây Bắc. Ðặc biệt những năm qua sản xuất ngô hàng hóa
phát triển mạnh ở Ðiện Biên, Sơn La và Hòa Bình.
Trong những năm qua, với lợi thế của vùng, cây chè được phát triển
mạnh, hiện chiếm hơn 51% tổng diện tích chè cả nước, với 19 giống chè
mới có năng suất, chất lượng đã và đang phổ biến trong sản xuất. Nhờ
vậy nhiều địa phương đã hình thành những vùng sản xuất chè lớn như Hà
Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ...
Mặc dù sản xuất nông nghiệp từng bước phát triển, nhưng so với mặt
bằng chung cả nước, kinh tế toàn vùng TDMNPB vẫn còn nhiều khó khăn.
Ngoài chè với diện tích gần 100 nghìn ha, hằng năm cho sản lượng gần
600 nghìn tấn (chiếm hơn 51% diện tích và 65% sản lượng chè cả nước),
thì các sản phẩm được coi là chủ yếu trong vùng như lúa chỉ chiếm gần
10%; ngô 36%; sắn 15%... Ðây cũng là một trong những nguyên nhân khiến
tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng cao nhất cả nước.
Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp
Ðể bảo đảm an ninh lương thực cho vùng, tạo nguồn thu nhập và lợi ích
cho người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nông sản, góp phần xóa
đói, giảm nghèo, các ngành chức năng cần phối hợp các tỉnh TDMNPB đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao về lượng, chất, mẫu mã sản phẩm của thị trường trong nước và
xuất khẩu.
Theo đó, phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng năng suất,
tăng chất lượng nông sản và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Lựa chọn
cây trồng, vật nuôi, dựa trên tiềm năng và lợi thế so sánh của từng
tiểu vùng (đồng bằng, trung du, đồi núi), phù hợp với điều kiện của mỗi
tiểu vùng phát triển nông sản đặc sản.
Chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng tỷ trọng của
ngành chăn nuôi, các cây trồng, vật nuôi có giá trị, có lợi thế: lúa
đặc sản, rau, hoa, cây công nghiệp ngắn ngày (chè, cà-phê, cây ăn quả,
mía), chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ðồng thời tái cấu trúc kinh tế nông
nghiệp, cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch
vụ nông nghiệp. Ðầu tư khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống
và mở mang thêm ngành nghề mới. Trong đó, ưu tiên những ngành nghề có
lợi thế về nguyên liệu, kỹ năng sản xuất, có khả năng cạnh tranh, những
ngành nghề thu hút nhiều lao động, có khả năng áp dụng tiến bộ khoa
học - kỹ thuật để nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm gắn với bảo vệ
môi trường và các hoạt động du lịch thương mại.
Ðầu tư xây dựng công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản, gắn liền với
xây dựng chợ và các trung tâm thương mại, dịch vụ ở nông thôn. Từng
bước hiện đại công nghệ sản xuất nông nghiệp, trong đó tập trung ứng
dụng các thành tựu của công nghệ sinh học để tạo ra và nhân giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, nhất là sử dụng các
giống có ưu thế lai, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Theo: nhandan