Đồng bào
dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng xa luôn là đối tượng ưu tiên trong chính
sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách dạy nghề.
Trên thực
tế, hoạt động dạy nghề đã và đang từng bước góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế,
xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng
ghi nhận, hệ thống chính sách dạy nghề áp dụng cho vùng dân tộc thiểu số cũng
đã lộ rõ một số bất cập.
Chị em xã Trung Hà, huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đang học nghề mây tre đan trong Dự án "Hỗ trợ
phụ nữ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo".
Còn chồng chéo
Trong giai
đoạn 2006-2011, Chính phủ đã xây dựng và ban hành 11 chính sách dạy nghề, được
chia thành bốn nhóm chính: Nhóm chính sách cử tuyển học nghề; Nhóm chính sách
đặt hàng đào tạo nghề; Nhóm chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên dân tộc rất
ít người thuộc hộ nghèo, học tại các trường nghề; Nhóm chính sách hỗ trợ học
nghề ngắn hạn.
Sau 4 năm
triển khai thực hiện các chính sách, có 50 tỉnh, thành phố đã tổ chức dạy nghề
cho đồng bào dân tộc thiểu số với 479.185 người được đào tạo nghề, trong đó,
dạy nghề theo nhóm chính sách cử tuyển là 936 người (chiếm 0,2%). Đối với nhóm
chính sách đặt hàng dạy nghề, trong giai đoạn 2008-2011, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội đã tổ chức đặt hàng dạy nghề ở trình độ cao đẳng, trung cấp với
28 cơ sở đào tạo, dạy nghề cho 18.750 người, trong đó có 3.515 học sinh là
người dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 19%.
Kết quả
đặt hàng dạy nghề cho thấy, có hơn 90% người dân tộc thiểu số có việc làm phù
hợp sau khi ra trường với thu nhập bình quân từ 2,5-3 triệu đồng/tháng. Còn đối
với nhóm chính sách hỗ trợ học nghề ngắn hạn theo Quyết định 81/2005/QĐ-TTg,
trong giai đoạn 2006-2008 đã hỗ trợ học nghề ngắn hạn cho 990.000 người.
Theo báo
cáo của các địa phương và qua khảo sát thực tiễn cho thấy, sau khi tham gia các
khóa dạy nghề, người lao động đã có những bước tiến rõ rệt về mọi mặt, từ kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực làm chủ máy móc, thiết bị hiện đại cho đến
kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp. Nhờ đó, khoảng 60-70% người học sau
khi tốt nghiệp đã tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm cho mình bằng cách
mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất theo mô hình trang trại, làm giàu tại
chỗ với phương châm "ly nông bất ly hương".
Bên cạnh
những kết quả đáng ghi nhận trên, hệ thống chính sách dạy nghề cho đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó, vấn đề mấu chốt là
giới hạn đối tượng người học nghề quá hẹp. Như trong nhóm chính sách cử tuyển
quy định, những đối tượng người dân tộc thiểu số thuộc diện được học nghề chỉ
gồm học sinh đã tốt nghiệp các trường trung học cơ sở dân tộc nội trú và trung
học phổ thông dân tộc nội trú, kể cả nội trú dân nuôi, nhưng đối tượng này vào
học nghề lại rất ít.
Trên thực
tế, có rất nhiều người dân tộc thiểu số không thuộc đối tượng quy định trên có
nhu cầu học nghề. Thậm chí, trong nhóm chính sách đặt hàng dạy nghề, học sinh
là người dân tộc thiểu số học nghề còn chưa được hưởng các chính sách ưu đãi
như học sinh phổ thông dân tộc nội trú, mặc dù như đã đề cập ở trên, chính sách
này đã mang lại những kết quả thiết thực.
Bên cạnh
đó, giữa các chính sách vẫn còn chồng chéo, như trong nhóm chính sách hỗ trợ
dạy nghề ngắn hạn, cùng đối tượng là người dân tộc thiểu số nhưng lại thụ hưởng
nhiều chương trình hỗ trợ khác nhau. Điều này khiến cho các địa phương lúng
túng trong thực thi chính sách và khó khuyến khích người học nghề theo đúng mục
tiêu của các chương trình này. Đó là chưa nói tới sự bất cập trong chính bản
thân nhóm chính sách, như đối với những địa phương có khó khăn về biên chế,
kinh phí đào tạo thì hình thức cử tuyển dường như không còn phù hợp với thực
tế.
Nữ thanh niên dân tộc Ba
Na, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai trong Dự án "Khôi phục làng nghề truyền
thống".
Cần tiếp tục "phủ sóng"
Theo các
chuyên gia, để đông đảo người dân tộc thiểu số được tiếp cận và thụ hưởng các
chính sách dạy nghề, vấn đề mang tính chất tiên quyết là phải mở rộng quy định
về đối tượng người học. Trên cơ sở đó, đa dạng hóa trình độ đào tạo nghề, ngành
nghề, nội dung, phương thức đào tạo, nhằm tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu
số được học nghề phù hợp với trình độ văn hóa và điều kiện phát triển kinh tế,
xã hội ở từng địa phương.
Thêm vào
đó, cần thiết phải mở rộng đối tượng học nghề là người dân tộc thiểu số được
hưởng các chế độ hỗ trợ. Bởi theo quy định hiện tại, chỉ có học sinh dân tộc
nội trú và học sinh dân tộc thiểu số học nghề nội trú theo diện cử tuyển mới
được miễn học phí và các loại lệ phí thi, tuyển sinh; được hưởng học bổng và
trợ cấp xã hội..., còn đối với học sinh người dân tộc thiểu số học nghề trong
các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề thì không thấy đề cập trong chính
sách.
Một vấn đề
nữa xuất phát từ thực tế hiện nay là tỷ lệ học sinh bỏ học sau mỗi kỳ học ngày
càng tăng, do trường học quá xa nhà và thời gian đào tạo dài, bởi cả nước mới
chỉ có 13 trường nghề dạy cho người dân tộc thiểu số. Để giải quyết vấn đề này,
cần có chính sách hỗ trợ để xây dựng mạng lưới các cơ sở dạy nghề cấp cơ sở,
trên tinh thần gắn với quy hoạch đào tạo mạng lưới chung. Bên cạnh đó, để thu
hút nhiều hơn nữa người dân tộc thiểu số học nghề, trong các chính sách dạy
nghề cũng cần các chế độ hỗ trợ về truyền thông để từng địa phương tuyên truyền
sâu rộng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dạy
nghề trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm thiết lập mạng lưới thông
tin về dạy nghề và việc làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Theo Báo Biên phòng