Tham luận Diễn đàn “Làng nghề Việt Nam phát triển và hội nhập, góp phần xây dựng nông thôn mới” (2)
Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch và xây dựng nông thôn mới
Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam Lưu Duy Dần
Langnghevietnam.vn- vicrafts.vn- Ban truyền thông - quan hệ quốc tế Hiệp hội làng nghề Việt Nam xin trích đăng nguyên văn bài tham luận của Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam
Nước ta được mệnh danh là đất nước của làng nghề,
nơi đây hội tụ những tinh hoa văn hóa, văn nghệ dân gian được bồi đắp
qua nhiều năm, sản sinh và lưu giữ những giá trị có hàm lượng văn
hóa, lịch sử tinh thần đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Trải qua bao
thăng trầm của lịch sử, những làng nghề, phố nghề vẫn tồn tại minh chứng cho
sức sống mãnh liệt của mạch nguồn văn hóa kết tinh qua mấy nghìn năm. Bằng trí
tuệ và đôi bàn tay tài hoa, các nghệ nhân người Việt đã bền bỉ gìn giữ và phát
triển những làng nghề truyền thống, di sản văn hóa Việt Nam đồng hành cùng
lịch sử dân tộc.
Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội và
công nghệ lâu đời. Văn hóa làng nghề luôn gắn với làng quê, các hoạt động lễ
hội, phường hội mang đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Các
làng nghề thường là những làng việt cổ, với kiến trúc độc đáo, một số làng
nghề là làng khoa bảng, làng cách mạng như làng dao kéo Đa Sĩ có rất nhiều
người đỗ đạt trong đó có danh y Hoàng Đôn Hòa nổi tiếng, làng gốm cổ truyền Bát
Tràng có 25 tiến sĩ trong đó có một trạng nguyên, làng dệt lụa Vạn Phúc,
các làng nghề huyện Phú Xuyên, làng nghề gỗ Mỹ nghệ Sơn Đồng,… thật
độc đáo là các sản phẩm làng nghề thể hiện được tinh hoa, bản sắc văn hóa dân
tộc. Khi khai quật di chỉ khảo cổ học Hoàng Thành Thăng Long cách đây nghìn năm
ai cũng thấy rõ vai trò của làng nghề trong việc xây dựng kinh thành. Từ những
viên gạch, viên ngói, đầu rồng đến những vật dụng sinh hoạt gốm sứ bị chon vùi
dưới đất qua bao thời đại vẫn còn giữ nguyên nét tinh xảo, tài hoa của bàn tay
khối óc người thợ thủ công. Đặc biệt, những sản phẩm từ từng lớp di chỉ thể
hiện rất rõ nét đặc trưng nghệ thuật của các triều đại khác nhau theo thứ tự
thời gian: Thời Lý – Trần, Thời Lê – Nguyễn…phản ánh dòng chảy văn hóa Việt Nam một cách sinh động, cụ thể. Ông cha ta đã để
lại một kho tàng nghề truyền thống quý giá, nay vẫn tồn tại và phát triển
trong cuộc sống hiện đại, vừa phục vụ nhu cầu tiêu dung trong nước vừa xuất
khẩu.
Tính đến tháng 12/2014, hiện nay cả nước có 5.096 làng
nghề và làng có nghề trong đó có 1.748 Làng nghề đã được công nhận, trên 400
làng nghề truyền thống với hơn 53 nhóm nghề. Riêng Thủ đô Hà Nội có 1.350
làng nghề đã được công nhận, hàng trăm làng nghề, phố nghề truyền
thống. Việt Nam ước tính có khoảng hơn 200 loại sản phẩm thủ công khác nhau
trong đó rất nhiều sản phẩm có lịch sử phát triển hàng trăm, hàng nghìn năm: Tơ
lụa Vạn Phúc, The La khê, Đồng Ngũ Xã, gỗ mỹ nghệ Sơn Đồng, Thêu Quất Động,
đúc Huế, Ý Yên, Đại Bái, Ngũ Xã, Phước Kiều, Mây Tre đan Phú Vinh, Phú
Túc, Chàng Sơn, Gốm Sứ Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Bầu Trúc, Kim Hoàn Định
Công, Đồng Xâm, Châu Khê, Khảm Chuôn Ngọ, Mộc Kim Bồng, Thổ cẩm Mai Châu, Dừa
Bến Tre, đồ chơi dân gian, nhạc cụ dân tộc…Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, làng
nghề Việt Nam có một sức sống mới, phong phú hơn, được chú ý về cơ sở hạ tầng,
công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu phát triển du lịch làng nghề, quảng
bá thương hiệu sản phẩm cải tiến mẫu mã…Tại các làng nghề ra đời nhiều công ty
mới, đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trên thị
trường quốc tế. Thị trường trong nước cũng có điều kiện phát triển như mặt hàng
nội, ngoại thất, sản phẩm văn hóa tâm linh…Sự phát triển ấy không bảo lưu cái
cũ mà bắt gặp sự giao thoa với thế giới. Đời sống của người dân ở nơi có làng
nghề thường cao hơn từ 3 – 5 lần so với làng thuần nông, các làng nghề thu
hút khoảng 10 triệu lao động, ngoài ra còn tạo việc làm cho hàng triệu lao động
phụ lúc nông nhàn. Những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu đã lên tới hơn 1 tỷ
triệu USD/năm.
Tuy nhiên, khoảng từ cuối năm 2008 đến nay trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế thế giới, các làng nghề Việt Nam cũng lâm vào tình cảnh hết
sức khó khăn, thiếu vốn. Đầu ra cho sản phẩm không ổn định, mặt bằng
sản xuất chưa được mở rộng,…Khi doanh nghiệp làng nghề thu hẹp sản xuất,
không những người lao động trực tiếp chịu tác động mà nó sẽ ảnh hưởng dây
chuyền tới nhiều lao động ở các lĩnh vực khác. Thực trạng đó đòi hỏi những biện
pháp giải cứu cho làng nghề trước hết là tháo gỡ khó khăn về kinh tế, tạo công
ăn việc làm cho hàng triệu lao động nhất là nhiều người là việc ở thành phố,
khu công nghiệp trở về làng chưa có công ăn việc làm. Cùng với sự trợ giúp của
Chính Phủ, một số doanh nghiệp làng nghề đã chủ động thực hiện các biện pháp
liên kết, liên doanh, tham quan, khảo sát, tổ chức lại sản xuất, kinh doanh,
áp dụng công nghệ mới để vươn lên. Đồng thời giải quyết hàng loạt vấn đề
về vốn, phát triển các vùng nguyên liệu, cải tiến mẫu mã sản phẩm hiện đại hóa
công nghệ truyền thống, xúc tiến thương mại mở rộng thị trường xuất khẩu, tập
trung khai thác tốt thị trường trong nước. Hà Nội có số lượng làng nghề nhiều
nhất nước, trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội đã đưa hoạt động của
các làng nghề truyền thống vào chương trình kỉ niệm, là cơ hội để các làng
nghề vượt qua khó khăn vươn lên. Thể hiện sức sống trường tồn nghề thủ công
truyền thống từ các làng nghề, phố nghề, nghệ nhân đã vượt qua khó khăn về vốn,
thị trường, công nghệ truyền thống lâu đời kết hợp với công nghệ hiện
đại.v.v…các làng nghề , nghệ nhân đã tham gia trưng bày triển lãm, lễ hội tham
gia chương trình “Những tấm lòng với Thăng Long – Hà Nội”, quà tặng cho thủ đô
nhân dịp đại lễ 1000 năm như: Tranh thêu “Cội xưa” nói về miền đất lịch sử Cố
Đô Hoa Lư – Ninh Bình của làng nghề truyền thống Văn Lâm, đồng thời cũng là một
làng nghề du lịch truyền thống lâu năm, bức Thiên Đô chiếu qua chất liệu đồng
Đại Bái gỗ Đồng Kỵ Bắc Ninh, trong ngày Đại lễ 1000 năm. Các làng nghề gốm Bát
Tràng, khảm chai Chuôn Ngọ, thêu Bất Động…Sau đại lễ 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội chúng ta đã khai thác lợi thế nghề thủ công truyền thống, các làng
nghề Việt Nam vào phát triển tiềm năng du lịch như: các lễ hội tri ân tổ
nghề, các trò chơi dân gian, văn hóa ẩm thực từ các làng nghề sẽ tạo nên một bức
tranh phong phú và đa dạng phục vụ cho khách du lịch và bảo tồn tinh hoa
văn hóa làng quê Việt Nam.
Về phát triển du lịch làng nghề truyền thống hiện nay. Trong
xu thế hội nhập quốc tế, làng nghề, ngành nghề truyền thống và các làng Việt cổ
Việt Nam là nơi hội tụ bản sắc, nét độc đáo riêng, góp phần giới thiệu sinh
động về đất nước và con người của mỗi vùng miền, địa phương, phát triển du lịch
làng nghề phù hợp với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội đang được nhiều quốc
gia quan tâm và đưa ra những chính sách quảng bá để kích thích phát triển loại
hình du lịch làng nghề.
Tuy nhiên, để phát triển xứng tầm loại hình làng nghề du
lịch còn rất nhiều việc phải làm như; Nhận thức, ý thức trách nhiệm của cấp
chính quyền, sự đồng thuận của nhân dân địa phương trong xây dựng cơ sở hạ
tầng, cảnh quan, môi trường, các chương trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
chất lượng cao. Đồng thời phải tạo những điều kiện cơ sở dịch vụ phục vụ khách
thuận lợi hấp dẫn để khách tham gia các hoạt động trải nghiệm làng
nghề, đến nhiều lượt mua nhiều hàng lưu niệm, có ấn tượng tốt đẹp.
Trong cuốn sách “làng nghề du lịch Việt nam” do Nhà xuất bản
Thống kê – Hà Nội năm 2007 đã nêu những điều kiện để trở thành một làng nghề du
lịch:
Thứ nhất: là các giá trị văn hóa làng nghề thể hiện thông qua tính
truyền thống của công nghệ và kỹ thuật sản xuất, đó là kết quả của một quá
trình kết tinh, truyền tải và tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đặc thù
sản phẩm của làng nghề phụ không thuộc vào dây truyền sản xuất hiện đại, năng
suất cao mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, bí quyết tài hoa người thợ chế tác đồ
thủ công. Sản phẩm sản xuất từng chiếc, từng chiếc, do đó huy động dấu ấn tình
cảm và cá nhân người thợ. Trong xu thế quốc tế hóa mọi mặt của đời sống giá trị
văn hóa truyền thống có sức hút đặc biệt đối với cá giá trị văn hóa truyền
thống, tìm hiểu nhân sinh quan, thế giới quan và quan niệm của người Việt Nam.
Thứ hai: là các giá trị lịch sử các làng nghề phải có tuổi nghề khá
cao, sản phẩm thường gắn với đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng, lưu
giữ cả những yếu tố tín ngưỡng, phong tục tập quán của các làng nghề. Bởi vậy
các làng nghề du lịch thường phải gắn với lễ hội truyền thống, gắn với cảnh
quan thiên nhiên truyền thống của làng quê Việt nam như: bến nước, dòng sông,
đình làng, sông núi, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên kỳ thú…
Thứ ba: là mức độ tham gia của cộng đồng. Động cơ của khách du
lịch khi lựa chọn đến các làng nghề là được trải nghiệm tận mắt quan sát quá
trình sản xuất và mua sắm sản phẩm thủ công, ngoài ra họ còn muốn tham gia vào
đời sống sinh hoạt thường nhật của làng quê. Quá trình này đòi hỏi mức độ tham
gia của cộng đồng là rất lớn, từ khâu hướng dẫn sản xuất cho thuê cơ sở lưu trữ
tại nhà mời khách các món ăn truyền thống, thuyết minh cho khách về phong tục
tập quán của làng. Bởi vậy, du lịch làng nghề đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa
khách du lịch, người dân địa phương, đơn vị kinh doanh du lịch.
Từ năm 2010 đến nay, Chính phủ đã ban hành một số
văn bản hỗ trợ sản xuất nhằm khôi phục và phát triển các nghề
truyền thống, thúc đẩy, tiêu thụ sản phẩm thị trường trong nước và
ngoài nước, phát triển làng nghề gắn với du lịch và chương trình xây
dựng nông thôn mới như: Năm 2010 ban hành Quyết định 132/2010 về chính
sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn,…hỗ trợ phát triển
sản xuất, khôi phục và phát triển các nghề, làng nghề truyền thống
; Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề nông
thôn nhằm thống nhất hành động của các bộ, ngành trung ương và địa
phương, đồng thời tăng cường các chính sách hỗ trợ ngành nghề, làng
nghề trong cả nước phát triển bền vững.
Ngày 29/01/2015, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản
số 771-VPCP-KTN truyền đạt ý kiến Thủ tướng về báo cáo rà soát
việc triển khai thực hiện các quy định hỗ trợ nghề và giải pháp huy
động vốn đầu tư nâng cấp hạ tầng các làng nghề được công nhận. Trong
đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp các Bộ, cơ quan
và địa phương thực hiện các dự án bảo tồn làng nghề truyền thống ;
xây dựng và triển khai các dự án phát triển cơ sở hạ tầng du lịch
làng nghề, chỉ đạo phát triển làng nghề gắn với du lịch, nhất là
xây dựng và triển khai thực hiện các tuyến, điểm du lịch gắn với
làng nghề.
Căn cứ Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc
gia về Nông thôn mới với 19 tiêu chí có tới 11 tiêu chí có quan hệ
mật thiết và thường xuyên đến làng nghề như tiêu chí Cơ sở vật chất
văn hóa (6), Tiêu chí Chợ Nông thôn (7), Tiêu chí Thu nhập (10), Tiêu chí
Hộ nghèo (11), Tiêu chí cơ cấu lao động (12), Tiêu chí Hình thức tổ
chức sản xuất (13), Tiêu chí giáo dục (14), Tiêu chí Văn hóa (16), Tiêu
chí Môi trường (17), Tiêu chí Hệ thống tổ chức chính trị xã hội
vững mạnh (18), Tiêu chí An ninh, trật tự xã hội được giữ vững (19)
chính vì thế làng nghề xứng đáng là hạt nhân góp phần thiết thực
vào việc phát triển và xây dựng nông thôn mới.
Lưu Duy Dần
Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
Còn nữa...