Tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại
các giống loài, ảnh hưởng xấu sức khoẻ con người là cái giá phải trả
cho quá trình tự do hóa thương mại mới được tiến hành chỉ trong vòng 10
năm trở lại đây ở nước ta.
Theo đánh giá mới đây của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, với 59 điểm trong bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường, Việt
Nam đứng ở vị trí 85/163 các nước được xếp hạng. Các nước khác trong
khu vực như Philippines đạt 66 điểm, Thái Lan 62 điểm, Lào 60 điểm,
Trung Quốc 49 điểm, Indonesia 45 điểm,... Còn theo kết quả nghiên cứu
khác vừa qua tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, Việt Nam nằm trong số
10 quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh hưởng nhiều nhất
đến sức khỏe.
Mới đây, hai trung tâm nghiên cứu môi trường thuộc Đại học Yale và
Columbia của Mỹ thực hiện báo cáo thường niên khảo sát ở 132 quốc gia.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt
Nam đứng thứ 123/132 quốc gia khảo sát; về ảnh hưởng của môi trường đến
sức khỏe đứng vị trí 77; về chất lượng nước Việt Nam được xếp hạng 80.
Tính theo chỉ số chung EPI, Việt Nam xếp thứ 79. Đó là những đánh giá
chung, còn nếu xem xét cụ thể trên từng khía cạnh thì sẽ càng thấy rõ
hơn
bức tranh chung của môi trường Việt Nam hiện nay.
Rừng tiếp tục bị thu hẹp
Trước năm 1945, nước ta có 14 triệu ha rừng, chiếm hơn 42% diện tích
tự nhiên của cả nước, năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha
(chiếm 29%), đến nay chỉ còn khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Độ
che phủ của rừng nước ta đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng rừng ở
các vùng còn rừng bị hạ xuống mức quá thấp. Trên thực tế chỉ còn khoảng
10% là rừng nguyên sinh.
40 năm trước đây, 400.000 ha đất ven biển nước ta được bao phủ bởi
rừng ngập mặn, nhưng chỉ trong 5 năm, 2006 - 2011, 124.000 ha rừng ngập
mặn ven biển đã biến mất để nhường chỗ cho các ao tôm, ao cá - tương
đương diện tích bị mất trong 63 năm trước đó. Rừng ngập mặn trưởng thành
rộng lớn ở vùng châu thổ sông Hồng hầu như đã bị tàn phá. Hệ lụy kéo
theo là sự giảm sút mạnh của năng suất nuôi trồng thủy sản ven biển và
sự mất cân bằng môi trường sinh thái.
Số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn cho thấy đến hết năm 2012 có hơn 20.000 ha rừng tự nhiên bị phá để
sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều nhất là để làm thủy điện, nhưng chỉ
mới trồng bù được hơn 700 ha.
Đa dạng sinh học bị ảnh hưởng nghiêm trọng
Thế giới thừa nhận Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng
sinh học vào nhóm cao nhất thế giới. Với các điều tra đã công bố, Việt
Nam có 21.000 loài động vật, 16.000 loài thực vật, bao gồm nhiều loài
đặc hữu, quý hiếm. Tổ chức vi sinh vật học châu Á thừa nhận Việt Nam có
không ít loài vi sinh vật mới đối với thế giới.
Thế nhưng, trong 4 thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài
chim bị tuyệt chủng và 120 loài thú bị diệt vong. Và, mặc dù có vẻ
nghịch lý nhưng có một thực tế là các trang trại gây nuôi động vật hoang
dã như nuôi những loài rắn, rùa, cá sấu, khỉ và các loài quý hiếm khác
vì mục đích thương mại ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á lại không hề làm
giảm bớt tình trạng săn bắt động vật hoang dã trong tự nhiên, mà thậm
chí còn làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn bởi những trang trại này đã
liên
quan tới các hoạt động buôn bán trái phép động vật hoang dã.
Tiến sĩ Elizabeth L. Bennett, Giám đốc Chương trình Giám sát nạn săn
bắt và buôn bán động vật hoang dã của Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang
dã, cho biết: “Thay vì hoạt động nhằm mục đích bảo tồn, các trang
trại gây nuôi động vật hoang dã lại vì mục đích thương mại nên trên thực
tế trở thành mối đe dọa với các loài động vật hoang dã trong tự nhiên.
Các phân tích từ những báo cáo cho thấy tác động tiêu cực của các trang
trại này lớn hơn rất nhiều so với những ích lợi mà chúng có thể đem
lại”. Thậm chí, những trang trại gây nuôi các loài sinh trưởng
nhanh với tỷ lệ sinh sản cao cũng tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn
vì những trang trại này liên tục nhập khẩu các loài động vật có nguồn
gốc tự nhiên.
Hơn 100 loài sinh vật ngoại lai đang hiện diện tại nước ta cũng là mối
nguy lớn cho môi trường sinh thái, như: ốc bươu vàng, cây mai dương, bọ
cánh cứng hại dừa, đặc biệt là việc nhập khẩu 40 tấn rùa tai đỏ - một
loài đã được quốc tế cảnh báo là một trong những loài xâm hại nguy hiểm.
Ô nhiễm sông ngòi
Với những dòng sông ở các thành phố lớn như Hà Nội hay thành phố Hồ
Chí Minh, tình trạng bị ô nhiễm nặng nề là điều dễ dàng nhận thấy qua
thực tế, cũng như qua sự phản ánh trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Tuy nhiên, sông ở nhiều vùng nông thôn cũng đang phải đối mặt với
tình trạng ô nhiễm nặng nề do rác thải sinh hoạt, rác thải làng nghề,
rác thải nông nghiệp và rác thải từ các khu công nghiệp vẫn đang từng
ngày, từng giờ đổ xuống.
Các dòng sông đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề nhất
là: sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai và hệ thống sông Tiền và
sông Hậu ở Tây Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Những con sông này đã
trở nên độc hại, làm hủy hoại nguồn thủy sản và ảnh hưởng trực tiếp tới
môi trường sống, sức khoẻ của cộng đồng.
Bãi rác công nghệ và chất thải
Hiện các doanh nghiệp ở Việt Nam là chủ sở hữu của hơn một nghìn con
tàu biển trọng tải lớn, cũ nát. Hầu hết các cảng biển trên thế giới đều
không cho phép loại tàu này vào, vì nó quá cũ gây ô nhiễm môi trường lại
không bảo đảm an toàn hàng hải. Thế nhưng, hơn một nghìn con tàu cũ nát
đó vẫn đang được neo vật vờ ở các tuyến sông, cửa biển để chờ được “hóa
kiếp” thành phế liệu mà việc phá dỡ loại tàu biển cũ này sẽ thải ra rác
thải nguy hại làm ô nhiễm môi trường sống.
Nhiều dự án luyện, cán thép lớn đã, đang và sẽ xuất hiện, hứa hẹn đưa
Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thép lớn, song đồng thời cũng có nguy
cơ biến Việt Nam thành nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải. Bài
học “xương máu” này đã từng xảy ra với ngành sản xuất xi măng, song vẫn
có khả năng lặp lại nếu những dây chuyền luyện gang, thép bị loại bỏ ở
Trung Quốc được đưa về lắp đặt ở Việt Nam.
Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp
Báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy,
nguồn chất thải vào môi trường từ trồng trọt và chăn nuôi đang có xu
hướng gia tăng, trong khi việc kiểm soát chưa đạt hiệu quả cao. Trong
đó, lo ngại nhất là chất thải từ chăn nuôi. Hiện cả nước có 16.700 trang
trại chăn nuôi, tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng (45%) và Đông
Nam Bộ (13%), với tổng đàn gia súc 37,8 triệu con và trên 214 triệu con
gia cầm. Theo tính toán của Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ
Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn), lượng phân thải của bò khoảng 10 - 15
kg/con/ngày, trâu là 15 - 20 kg/con/ngày, lợn là 2,5 - 3,5 kg/con/ngày
và gia cầm là 90 gr/con/ngày. Như vậy, tính ra tổng khối lượng chất thải
trong chăn nuôi của nước ta hiện khoảng hơn 73 triệu tấn/năm.
Nuôi trồng thủy sản cũng đang gặp phải vấn đề tương tự. Việc đẩy mạnh
các biện pháp thâm canh, tăng năng suất tại các vùng nuôi tôm tập trung,
trong đó chủ yếu là tôm sú đã làm gia tăng ô nhiễm nguồn nước. Cùng với
đó, tình trạng sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong trồng
trọt một cách tràn lan, không có kiểm soát đã gây ô nhiễm môi trường
đất, nước. Hiện nay, lượng thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục được
phép sử dụng, quá hạn sử dụng còn tồn đọng cần tiêu hủy là hơn 700 kg
(dạng
rắn) và hơn 3.400 lít (dạng lỏng).
Kết quả điều tra năm 2006 cho thấy, khu vực nông thôn thải ra khoảng
10 triệu tấn/năm chất thải rắn sinh hoạt, nhưng đến năm 2010 tăng lên
tới 13,5 triệu tấn/năm. Số rác thải này cộng với lượng chất thải từ sản
xuất nông nghiệp đã khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu vực
nông thôn ngày càng trở nên đáng lo ngại.
Ô nhiễm ở các làng nghề
Một khảo sát mới đây của Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường (Đại
học Bách khoa Hà Nội) và Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, 100% mẫu
nước thải ở các làng nghề đều cho thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho
phép. Riêng Hà Nội, khảo sát tại 40 xã cho kết quả khoảng 60% số xã bị ô
nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất.
Ở các làng tái chế kim loại, khí độc không qua xử lý đã thải trực tiếp
vào không khí như ở làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), nồng độ
chì vượt quá 2.600 lần tiêu chuẩn cho phép. Nghề thuộc da, làm miến dong
ở Hà Tây cũng thường xuyên thải ra các chất như bột, da, mỡ làm cho
nước nhanh bị hôi thối, ô nhiễm nhiều dòng sông chảy qua làng nghề.
Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu khoa học kỹ thuật bảo hộ lao
động gần đây cho biết, trong các làng nghề, những bệnh mắc nhiều nhất là
bệnh liên quan đến hô hấp như viêm họng chiếm 30,56%, viêm phế quản 25%
hay đau dây thần kinh chiếm 9,72%. Tại làng nghề tái chế chì Đông Mai,
tỷ lệ người dân mắc bệnh về thần kinh chiếm khoảng 71%, bệnh về đường hô
hấp chiếm khoảng 65,6% và bị chứng hồng cầu giảm chiếm 19,4%. Còn tại
làng nghề sản xuất rượu Vân Hà (Bắc Giang) tỷ lệ người mắc bệnh ngoài
da là 68,5% và các bệnh về đường ruột là 58,8%.
Khai thác khoáng sản
Cùng với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu, nguồn tài nguyên khoáng sản
dưới lòng đất của nước ta đã bị khai thác khá mạnh. Theo thống kê của
Tổng cục Hải quan, từ năm 2009 - 2011, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 2,1 -
2,6 triệu tấn khoáng sản các loại (không kể than, dầu thô) với điểm đến
chủ yếu là Trung Quốc, nhưng chỉ mang lại giá trị 130 - 230 triệu USD.
Riêng năm 2012, lượng khoáng sản xuất khẩu vẫn gần 800.000 tấn thông qua
đường chính ngạch. Nếu cộng cả số xuất lậu, xuất qua đường biên mậu, số
lượng xuất khẩu còn lớn hơn nữa (vào năm 2008, chỉ riêng xuất lậu
quặng ti-tan ước tính đã lên đến 200.000 tấn).
Trong ba năm, hoạt động khai thác sắt, ti-tan khiến các khu vực,
rừng ven biển từ Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận,… bị tàn
phá nghiêm trọng. Rừng mất đi và dân làng biển đang phải đối mặt bão,
lũ, gió cát.
|
Và, hậu quả của ô nhiễm môi trường từ những hoạt động khai thác khoáng
sản đã quá rõ ràng. Qua điều tra, cứ 4.000 người dân Quảng Ninh có
2.500 người mắc bệnh, chủ yếu là mắc bệnh bụi phổi, hen phế quản, tai
mũi họng (80%). Kết quả quan trắc của các cơ quan chuyên môn cho thấy
nồng độ bụi ở khu vực Cẩm Phả vượt từ 3 - 4 lần tiêu chuẩn cho phép, gần
0,3 mg/m3 trong 24 giờ (gồm bụi lơ lửng, bụi Pb, Hg, SiO2, khí thải CO,
CO2, NO2). Mỏ Đèo Nai phải xử lý lượng đổ thải chất cao thành núi
trong mấy chục năm qua. Mỏ Cọc Sáu với biển nước thải sâu 200m chứa 5
triệu m3có nồng độ a-xít cao và độ PH 4 - 4,5mgđl/l sẽ phải tìm công
nghệ phù hợp để xử lý.
Ô nhiễm không khí
Việt Nam cũng đang bị coi là nước có ô nhiễm không khí cao tới mức báo động.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu
vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi
PM10 (tức bụi có kích thước bé hơn 10μ) tăng 1,07 lần. Kênh rạch ở khu
vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ và vi sinh ở mức độ cao. Phần lớn nước
thải sinh hoạt chỉ mới được xử lý sơ bộ qua bể tự hoại gia đình. Nhiều
nhà máy, cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc nếu có
trang bị thì không vận hành thường xuyên.
Ông Jacques Moussafir, công ty ARIA Technologies (Pháp) cho
biết: Nếu không có biện pháp nào thì nồng độ phát thải bụi mỗi năm tại
Hà Nội có thể đạt 200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10 lần mức khuyến cáo của
Tổ chức Y tế thế giới. Nếu tình huống này xảy ra thì số lượng người
nhiễm bệnh do ô nhiễm không khí sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020. Nguy cơ
mắc bệnh viêm phế quản cấp và mạn tính, hen suyễn, vấn đề tim mạch sẽ
tăng gấp đôi, đặc biệt là với trẻ nhỏ và người già.
|
Theo: Tạp chí Cộng Sản