Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước
thải được Chính phủ ban hành mới đây là một công cụ kinh tế hữu hiệu
trong BVMT, góp phần khuyến khích các DN, tổ chức, cá nhân đầu tư công
nghệ xử lý chất lượng nước thải, sử dụng nguồn nước tiết kiệm, hiệu quả,
hạn chế ô nhiễm môi trường.
Nghị định mới khuyến khích các DN đầu tư công nghệ thân thiện môi trường
Thực ra, đây không phải lần đầu tiên Chính phủ ban hành một nghị định
về phí BVMT đối với nước thải. Trước đó đã có Nghị định 67/2003/NĐ-CP
về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Tuy nhiên, sau gần 9 năm
triển khai, còn một số vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực hiện như
công thức tính toán phức tạp, khó khăn, việc lấy mẫu xét nghiệm, quan
trắc môi trường cũng như việc áp dụng rất khó khăn cho nên nhiều DN tìm
cách đối phó với công tác bảo vệ môi trường. Nghị định 25 được ban hành
sẽ cơ bản khắc phục một số vướng mắc gặp phải trong quá trình thực hiện
Nghị định 67/2003/NĐ-CP.
Những điểm mới
Nghị định 25 quy định khung mức thu phí cố định theo năm tối đa không
quá 2,5 triệu đồng đối với tất cả các cơ sở sản xuất, chế biến thuộc
diện nộp phí BVMT đối với nước thải. Ngoài mức phí cố định nêu trên, các
DN xả nước thải với khối lượng từ 30 m3/ngày đêm trở lên thì nộp phí
biến đổi đối với 2 chất gây ô nhiễm là nhu cầu ôxy hoá học (COD) và chất
rắn lơ lửng (TSS) theo khung mức đối với từng chất lần lượt từ 1.000 –
3.000 đồng/kg và 1.200 – 3.200 đồng/kg (thay vì mức khung từ 100 – 300
đồng/kg và từ 200 – 400 đồng/kg quy định tại Nghị định 67). Riêng các DN
có nước thải chứa kim loại nặng thì mức phí cố định nêu trên được nhân
thêm với hệ số K từ 2 – 21 tuỳ vào lượng nước xả thải của đơn vị tính
theo m3/ngày đêm.
Nghị định góp phần giảm tải khối lượng công việc cũng như chi phí của
DN sản xuất và cơ quan thu phí trong việc kê phai, nộp phí đối với nhóm
các cơ sở có khối lượng nước thải ít (dưới 30m3/ngày đêm), do chỉ phải
nộp một khoản phí cố định cho cả năm sản xuất.
Chặng đường chông gai
Tỉ lệ thu phí nước thải của VN còn rất thấp. Ngay Hà Nội và TP HCM cũng chỉ thu được chừng 20 - 30% so với dự kiến. |
Theo
thống kê, tỷ lệ thu phí nước thải của VN còn rất thấp, như hai thành
phố lớn là Hà Nội và TP HCM chỉ thu được chừng 20 - 30% so với dự kiến.
Nhiều nơi có hệ thống xử lý nước thải lại không được vận hành, vì vậy số
lượng lớn nước thải chưa qua xử lý lại thải trực tiếp ra môi trường.
Các làng nghề hầu như không có hệ thống xử lý nước thải, mà chúng xả
trực tiếp ra môi trường.
Trên địa bàn cả nước mới có 45/64 tỉnh, thành phố thực hiện việc thu
phí, hiện vẫn còn 19 tỉnh, thành phố chưa thực hiện việc thu phí. Với
gần 1/3 số địa phương trên cả nước chưa thực hiện việc thu phí, đây thực
sự là một tồn tại lớn mà trong thời gian tới cần khắc phục. Việc thu
phí nước thải công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn với số phí thu được còn
thấp, chỉ đạt khoảng 10% tổng số phí. Có 22 tỉnh chưa triển khai thu
phí nước thải công nghiệp. Một số thành phố lớn là trung tâm công nghiệp
của cả nước nhưng chưa thực hiện, hoặc thực hiện chưa triệt để công tác
thu phí thể hiện qua việc số phí thu được còn thấp so với quy mô phát
triển công nghiệp tại địa phương.
Ngoài ra, số cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về môi trường của
nước ta chỉ là 13 cán bộ/một triệu dân, chưa nói đội ngũ quản lý môi
trường chưa được đào tạo đầy đủ. Hiện chỉ có 25% số cán bộ được đào tạo
đúng chuyên môn. So với các nước láng giềng, số cán bộ làm công tác quản
lý môi trường của VN chỉ bằng một nửa đến một phần ba, như Thái Lan có
30 cán bộ /một triệu dân, Campuchia có 50 cán bộ/một triệu dân.
Theo: Diễn đàn doanh nghiệp