Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có
15 chương, 136 điều (so với Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 1993 tăng 8
chương, 79 điều). Để đáp ứng tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, đánh giá hiệu
quả Luật BVMT 2005 và đề xuất những vấn đề cơ bản cần quy định tại Luật Bảo vệ
môi trường (sửa đổi) là hết sức cần thiết, trong đó vai trò trách nhiệm của
cộng đồng xã hội cũng như vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nước,
đất… đang được cả xã hội quan tâm.
Hệ thống xử lý nước thải của một doanh nghiệp
trong KCN Hà Bình Phương - Thường Tín - Hà Nội
Kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí: Luật còn bỏ ngỏ
Theo GS.TSKH. Phạm Ngọc Đăng – Chủ
tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam: “Hiện trong Luật BVMT năm 2005 lại
không hề có chương nào, điều nào quy định về BVMT không khí và BVMT đất. Trong
khi con người có thể nhịn ăn từ 5-7 ngày, nhịn uống từ 3-5 ngày vẫn có thể chưa
chết nhưng nhịn thở từ 3-5 phút có thể gây ra tử vong”. Chính những “lỗ hổng”
trong Luật BVMT 2005 đã góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí
ngày càng nghiêm trọng”.
Theo kết quả nghiên cứu 2010
của đề tài “Nghiên cứu đánh giá tổng thể sức khỏe và thiệt hại kinh tế do ô nhiễm
không khí gây ra” thuộc chương trình 23 “Cải thiện chất lượng không khí ở các
đô thị” của Cục Y tế, Bộ Giao thông Vận tải cho thấy mức độ thiệt hại về kinh
tế do ô nhiễm không khí gây ra các bệnh tật tính bình quân trên đầu người mỗi
ngày đối với người dân nội thành Hà Nội là 1.538 đồng/người/ngày, đối với dân
nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh là 739 đồng/người/ngày. Và nếu tính tổng số
dân nội thành khoảng 2,5 triệu người thì Hà Nội bị thiệt hại do ô nhiễm không
khí khoảng 66,83 triệu USD/năm và 70,96 triệu USD/năm đối với thành phố Hồ Chí
Minh có số dân nội thành khoảng 5,5 triệu người.
Cũng theo ông Đăng để kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí, Luật Bảo vệ Môi trường không khí sửa đổi cần bổ sung các
nguyên tắc bảo vệ môi trường không khí ở các đô thị, làng nghề, khu công
nghiệp, khu vực nông thôn… chống ô nhiễm tiếng ồn giao thông vận tải, tiếng ồn
công nghiệp và tiếng ồn sinh hoạt cũng như vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên
giới.
Kiểm soát ô nhiễm nước: cần có sự
tham gia của cộng đồng
Theo GS.TS Trần Hiếu Nhuệ - Hội Bảo
vệ Thiên nhiên và Môi trường: “Hiện nay cả nước có khoảng 2500 làng nghề, nhưng
thực tế rất ít làng nghề có các giải pháp xử lý nước thải. Còn trong số khoảng
336 khu công nghiệp đã được phê duyệt, chỉ có 235 khu công nghiệp hoạt động
thực sự nhưng cũng chỉ có 143 KCN có xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Đặc biệt trong khoảng 1000 cụm công nghiệp trên cả nước mới chỉ có
khoảng 18 cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung hay nói cách
khác vấn đề BVMT đối với các cụm công nghiệp hầu như còn bỏ ngỏ”.
Thực tế cho thấy các điều 35,36,37,38,
44 điều 82 chương VIII quy định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ
chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, các KCN, CCN, làng nghề …
nhưng thực tế 5-7 năm, các điều khoản đó thực hiện rất chậm và thậm chí còn
nhiều vi phạm. Nguyên nhân là do nhận thức của chủ đầu tư; nhà nước thiếu lực
lượng kiểm tra, thanh tra. Do vậy Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi cần thêm nội
dung có cộng đồng thanh tra kiểm tra nhân dân mà đại diện là các tổ dân cư khu
vực lân cận được quyền kiểm tra sự tuân thủ của các chủ dự án đầu tư hạ tầng kỹ
thuật, KCN, CCN…Đặc biệt, cần phải bổ sung ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, ứng phó với thiên tai, bão lũ.
Và vai trò quan trọng của cộng đồng
Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã có
những quy định nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự tham gia của cộng đồng trong bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên, những quy định này còn có những hạn chế cần hoàn
thiện khi sửa đổi. Theo TS. Nguyễn Văn Phương - Trường Đại học Luật Hà Nội:
“Điều 103,104 và 105 Luật BVMT 2005 quy định về công khai thông tin, dữ liệu về
môi trường: tổ chức, cá nhân quản lý khu sản xuất, kinh doanh…có trách nhiệm
công khai với nhân dân, người lao động tại cơ sở sản xuất kinh doanh về tình
hình môi trường cũng như các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tác động. Như vậy
cộng đồng dân cư theo quy định này được các chủ thể khác nhau công khai những
thông tin có liên quan đến môi trường, tuy nhiên cộng đồng được tiếp nhận thông
tin một cách bị động. Do vậy, khi sửa đổi Luật BVMT 2005 cần cân nhắc, xem xét giải
quyết các vấn đề cộng đồng dân cư có quyền chủ động yêu cầu các chủ thể cung
cấp thông tin môi trường không? Phạm vi thông tin mà người dân (cộng đồng) khi
yêu cầu cung cấp thông tin, trách nhiệm của những chủ thể có liên quan khi
không thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin.
Thêm vào đó, cần xây dựng một hoặc
hai điều trong luật BVMT sửa đổi quy định về sự bảo đảm tham gia của cộng đồng
trong bảo vệ môi trường. Điều này quy định về các biện pháp nâng cao năng lực
cộng đồng như nâng cao nhận thức, các giải pháp và cơ chế khuyến khích hoạt
động bảo vệ môi trường…
Nhìn chung, sự tham gia của cộng đồng
vừa là quốc sách vừa là động lực quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Nhiều kinh nghiệm thành công trong thực tế cho thấy chính sách xã hội hóa trong
bảo vệ môi trường là một chính sách đúng đắn, do vậy bên cạnh Luật thì các văn
bản dưới luật cần làm rõ cơ chế bảo đảm thực hiện quyền “biết, bàn, làm, kiểm
tra, khiếu nại và tố cáo” của cộng đồng trong BVMT./.
Nguồn: VEN