Về làng đậu
phụ Trà Lâm, xã Trí Quả (Thuận Thành) những ngày này, cảnh mua bán đậu vẫn tấp
nập khắp đường làng, ngõ xóm. Nhưng người dân nơi đây vẫn không yên bởi lợi
nhuận từ nghề đang bị giảm mà vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng cao.
Nghề làm đậu phụ của Trà Lâm đã có từ lâu đời, nhưng từ năm
2010 trở lại đây mới thực sự phát triển mạnh. Tại Trà Lâm, từ tờ mờ sáng, các
lối dẫn vào làng luôn nhộn nhịp khi các thương lái từ khắp nơi đổ về chở đậu
tỏa đi khắp các tỉnh, thành phố lân cận. Toàn thôn có 510 hộ với 2.150 nhân khẩu
thì có 70 - 80% số hộ làm đậu phụ với khối lượng trung bình 10 tấn đỗ/ngày
(tương đương khoảng 35.000-40.000 bìa đậu đôi), giá bán trung bình 5000 - 6000
đồng/bìa. Nghề làm đầu phụ đã đem lại thu nhập ổn định cho nhiều gia đình trong
thôn. Trung bình, sau khi trừ đi các khoản chi phí nguyên vật liệu mỗi người
làm nghề có thu nhập khoảng 80 - 100 nghìn đồng/ngày.
Nghề làm đậu phụ lợi nhuận lại
được tạo ra từ sản phẩm phụ (bã đậu) để chăn nuôi gia súc. Ở đây, hầu hết các
hộ làm đậu đều kết hợp chăn nuôi lợn, hộ làm ít cũng nuôi 20 - 30 con lợn, hộ
làm nhiều nuôi 50 - 70 con. Một vài năm
trước, lợn bán được giá, nhiều gia đình ở Trà Lâm đã có thu nhập hàng trăm
triệu đồng/năm từ nghề làm đậu phụ kết hợp chăn nuôi lợn. Điển hình như gia
đình anh Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đắc Thêu, Nguyễn Đình Đức, Phạm Thành Đua…
Tuy nhiên, gần thời gian gần đây, những người làm đậu ở Trà
Lâm gặp không ít khó khăn bởi chi phí đầu vào như: đỗ, điện, than, nước… đều
tăng giá trong khi đó giá đậu tăng không đáng kể; lợi nhuận từ chăn nuôi vốn
được coi là thu nhập chính của người làm đậu giảm mạnh, thậm chí có những hộ còn
phải bù lỗ bởi giá thịt lợn đã giảm mạnh so với trước.
Ông Phạm Thành Đua cho biết: “Mấy năm gần đây, gia đình duy
trì làm đậu ở mức 50 - 60 kg đỗ/ngày và đàn lợn 50 - 70 con lợn (gấp 2 - 3 lần
so trước kia). Thu nhập mỗi năm gia đình cũng được trên trăm triệu đồng, còn
năm nay lời lãi chẳng đáng là bao...”. Bên cạnh việc giảm thu nhập, hiện nay
người Trà Lâm còn phải sống chung với môi trường ô nhiễm. Dù chưa có đánh giá
cụ thể về mức độ ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường gây ra, nhưng bước vào từ đầu
làng Trà Lâm, mọi người đều cảm thấy khó chịu bởi mùi hôi thối bốc nồng nặc.
Được biết ở Trà Lâm hiện có hơn 300 hộ gia đình làm đậu phụ
kết hợp với chăn nuôi nhưng mới chỉ có hơn 100 hộ xây bể chứa Biogas để xử lý
chất thải, còn lại phân tươi của gia súc vẫn xả thẳng ra cống rãnh chạy quanh làng.
Trong khi đó, hệ thống thoát nước của thôn ngày càng xuống cấp không đáp ứng
kịp lượng chất thải từ làm đậu và chăn nuôi… ngày càng gia tăng.
Nước thải từ làm đậu và
chăn nuôi xả trực tiếp ra cống rãnh tạo nên mùi hôi thối lan tỏa khắp làng.
Ngoài ra, việc các hộ gia đình sử dụng than để
sản xuất đậu với khối lượng lớn, kéo dài hơn 2 năm nay đã và đang gây ô nhiễm môi trường không khí, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe người dân do khí thải từ việc đốt than có chứa nhiều
CO2, SO2, bụi than…
Trước thực trạng đó, chính quyền thôn đã tổ chức nạo vét,
khơi thông cống, rãnh; tuyên truyền, vận động nhân dân xây bể chứa Biogas và áp
dụng biện pháp ủ mục phân… Chỉ tính riêng trong năm nay, thôn đã đầu tư 50
triệu đồng để khơi thông cống rãnh, tuy vậy vẫn không thể cải thiện được môi trường
ở đây. Ngay đầu làng, một phần diện tích canh tác đã phải bỏ, một phần khác bị
giảm năng suất do nước thải trong thôn đổ ra...
Ông Trịnh Quang Tái, Trưởng thôn Trà Lâm cho biết: “3 năm
lại đây, hầu hết các hộ làm đậu đều chuyển từ làm thủ công sang máy với khối
lượng tăng gấp 3 - 4 lần so với trước. Hiệu quả kinh tế hộ gia đình đã rõ,
nhiều hộ đã giàu lên trông thấy. Nhưng đằng sau sự phát triển đó là những hệ
lụy kéo theo không thể phủ nhận như: Môi trường ô nhiễm, sức khỏe nhân dân giảm
sút, dịch bệnh của người và vật nuôi gia tăng, nhất là thời gian gần đây một số
cụ già và trẻ nhỏ là những đối tượng có sức đề kháng kém thường bị bệnh viêm
đường hô hấp, những người tiếp xúc khói than nhiều cũng bị mờ mắt do nhiễm khói
than…”.
Bởi vậy, để phát
triển kinh tế đi đôi với việc nâng cao chất lượng sống của người dân làm đậu
phụ rất cần sự quy hoạch vùng làng nghề cụ thể, đồng thời thực hiện sản xuất
phải gắn với bảo vệ môi trường. Việc thực hiện quy hoạch cần đồng bộ từ mặt
bằng sản xuất đến kết cấu hạ tầng như: giao thông, hệ thống cung cấp điện,
nước, hệ thống xử lý nước thải, thu gom chất thải rắn để xử lý tập trung…
Nguồn: Báo Bắc Ninh