Đến xã Yên Tiến bất cứ lúc nào đều cảm nhận một
mùi tanh nồng, hôi thối. Tất cả các ao, hồ, kênh, mương đều được các hộ
dân trong làng nghề trưng dụng để ngâm tre, nứa. Màu đen đặc quánh là
đặc trưng dễ thấy nhất trên nguồn nước mặt của toàn xã.
Bà Lê Thị
Tươi, trú tại thôn Bắc Sơn nói: Chúng tôi không làm nghề nhưng quanh
năm phải ngửi mùi hôi thối của nước ngâm tre nứa bốc lên! Sợ nhất là mùa
hè, nắng to thì mùi xộc vào nhà, bê bát cơm lên phải bỏ xuống, không
thể nào nuốt vào được. Mưa to thì nước đen, đặc quánh tràn lên, cứ dính
vài giọt là viêm, ngứa cả tháng!
Ở thôn Văn Tiến gần đó, ông Ngô
Văn Minh lo lắng nói: Có quét điện, thậm chí gạn sạch ao hồ ở khắp xã
này cũng đố ai bắt được con tôm, con cá nào. Cả chục năm nay ngâm tre,
ngâm nứa làm gì có sinh vật nào sống được. Đến nước ngầm cũng còn có màu
đen, lọc kiểu gì cũng vẫn bốc mùi khó chịu.
Do nghề thủ công mỹ
nghệ tre, nứa ghép thời gian qua phát triển mạnh nên hầu hết người dân
của 19 thôn ở Yên Tiến đều tham gia làm nghề. Dù năm 2010, 2011 thị
trường nhập khẩu mặt hàng này suy giảm nhưng hiện nay xã vẫn có khoảng
30 doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tre, nứa
ghép sang thị trường Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, EU. Trong tổng số gần
3.200 hộ dân với trên 13 nghìn nhân khẩu của Yên Tiến đang có trên 2000
hộ tham gia làm nghề thường xuyên, số còn lại cũng làm nghề theo mùa
vụ. Không thể phủ nhận nghề thủ công mỹ nghệ tre, nứa ghép đã đưa Yên
Tiến trở thành một trong những xã có thu nhập, mức sống dẫn đầu toàn
huyện Ý Yên.
Tuy nhiên, nghề tre, nứa ghép đang huỷ hoại môi
trường trầm trọng do công đoạn xử lý ngâm nguyên liệu tre, nứa trước khi
đưa vào sản xuất. Bình quân mỗi ngày tại Yên Tiến sử dụng từ 150 đến
200 tấn tre, nứa. Mỗi năm toàn xã sử dụng khoảng 70.000 tấn tre, nứa
nguyên liệu. Để sản xuất ra thành phẩm, số lượng nguyên liệu này đều
phải được xử lý thô bằng công đoạn ngâm trong nước từ 2 đến 3 tháng. Do
số lượng nguyên liệu quá lớn nên toàn bộ những điểm có mặt nước của xã
đều được người dân tận dụng để ngâm tre, nứa.
Bà Ngô Thị Thu ở
thôn Đông Hưng cho biết: Hai con kênh tưới tiêu chính trong xã là kênh
S40 và kênh S48 đi qua gần 10 thôn quanh năm đều có tre, nứa ngâm kín
dòng chảy, ở Yên Tiến chỉ trừ giếng làng là chưa bị sử dụng để ngâm tre
nứa.
Ông Ngô Văn Ba, một hộ làm nghề ở thôn Đồng Tiến cho biết:
Vào trước đợt cao điểm xuất hàng, các hộ xếp lượt để được lấy phần mặt
nước ngâm nguyên liệu, nhiều kênh tiêu phụ bị cạy nắp bê-tông để thả
tre, nứa xuống ngâm. Năm này qua năm khác, tất cả các vùng mặt nước của
xã Yên Tiến dần chuyển màu đen kịt, đặc quánh, bốc mùi hôi thối nồng nặc
khắp toàn xã. Đo đạc của Sở tài nguyên và môi trường gần đây cho thấy:
Tại các ao, hồ, kênh ở Yên Tiến chỉ số độc hại như BOD, COD, SS… đều
vượt từ 5 đến 25 lần mức độ cho phép.
Hiện nay, do không có biện
pháp xử lý, ngăn chặn nào nên khẳng định mức độ ô nhiễm còn cao hơn
nhiều lần. Kết luận khoa học khẳng định nguồn nước mặt tại Yên Tiến
không thể sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác, kể cả tưới tiêu nông
nghiệp. Chưa hết, do thời gian kéo dài, ô nhiễm đã ngấm từ ao, hồ xuống
nước ngầm. Tất cả các giếng đào, giếng khoan, nguồn nước ngầm của Yên
Tiến cũng đều có màu sẫm, vẩn và có mùi vị lạ. Biết vậy nhưng vẫn phải
dùng vì đến nay mới chỉ có nửa xã miền trên được tiếp nhận nguồn nước
máy từ Nhà máy nước Ý Yên. Nửa xã miền dưới vẫn phải dùng nước nước mưa,
nước giếng lọc để sinh hoạt. Đến kỳ hội làng mỗi năm có tục lệ rước
nước, các thôn đều phải lên giếng làng xin nước về rước vì không tìm đâu
ra chỗ nào còn nước sạch.
Vài năm gần đây, do thị trường xuất
khẩu khó khăn hơn, một số hộ trong xã chuyển hướng sang sản xuất đồ thờ.
Môi trường làng nghề Yên Tiến lại tiếp nhận thêm một tác nhân gây ô
nhiễm từ sơn PU với chất dung môi Acetol gây bệnh trực tiếp cho đường hô
hấp. Năm 2005, không ít người dân Yên Tiến khấp khởi mừng thầm khi nghe
tin UBND xã sẽ triển khai dự án trị giá trên 4,5 tỷ đồng về xây dựng
khu vực ngâm tre nứa tập trung và triển khai các biện pháp xử lý nguồn
nước ngâm tre nứa. Tuy nhiên, dự án này vẫn ở trên giấy vì theo ông Ngô
Văn Hùng, cán bộ địa chính-môi trường của xã: Dự án không thực hiện được
do không có đủ quỹ đất công ngâm tre nứa lên tới 50ha, bằng hơn 5% tổng
quỹ đất toàn xã. Bên cạnh đó, kinh phí xử lý ô nhiễm nguồn nước bằng
công nghệ quá cao, đội giá nguyên liệu đầu vào tăng gần 30% nên giải
pháp xử lý ô nhiễm từ các hộ, cơ sở sản xuất cũng thất bại.
Ông
Bùi Sỹ Đăng, trạm trưởng trạm Y tế xã Yên Tiến cho hay: Tác động ô nhiễm
môi trường ở địa phương ngày càng đáng lo ngại. Tỷ lệ các bệnh về bênh
phổi, ngoài da, bệnh tiêu hóa, bệnh mắt đang cao. Năm 2011, tỷ lệ mắt
hột hoạt tính trong học sinh là 1,28%. Đặc biệt, chỉ số ung thư tăng
cao, riêng năm 2011 có tới 11 người chết do ưng thư! Cùng với bệnh tật,
nguồn nước của các kênh tưới tiêu bị ô nhiễm đang gây ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp trên địa bàn xã. Thậm chí, người dân của xã lân cận như
Yên Ninh, Yên Bằng, Yên Quan cũng phản ánh ô nhiễm kênh S40, S48 đang
gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của các xã này.
Làng nghề
phát triển đã đưa thu nhập của người dân Yên Tiến ngày càng khấm khá
hơn, nhưng môi trường ô nhiễm nặng nề không đưa chất lượng cuộc sống của
người dân lên cao. Không chỉ đe dọa sức khỏe, sinh mạng của người dân, ô
nhiễm môi trường còn ảnh hưởng đến thế hệ tương lai ở xã Yên Tiến. Vì
vậy, dù khó đến đâu cũng phải có giải pháp xử lý cho một định hướng phát
triển làng nghề truyền thống.