Không còn nhiều hộ gia đình tại Trù Sơn mặn mà với nghề nặn nồi đất
Một thời vào Nam, ra Bắc
Từ lâu, người dân Trù Sơn (Đô Lương-
Nghệ An) đã nức tiếng gần xa với tay nghề làm nồi đất. Điều đặc biệt là
những chiếc nồi đất mang đậm dấu ấn hồn quê, dân tộc đều do bàn tay khéo
léo của phụ nữ làng Trù tạo ra. Hiện tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
đang lưu giữ hơn 500 hiện vật bằng đất nung xuất phát từ làng quê bình
dị này...Sản phẩm làng nồi Trù Sơn có đủ nồi, niêu, xoong, chảo, hôông
xôi, hôông nấu rượu ... Họ bảo, nấu bằng nồi đất thì món ăn ngon, hương
vị đậm đà, để được lâu hơn. Kho cá, kho thịt... bằng nồi đất thì ngon
phải biết! Nhưng hàng nồi dễ vỡ... và cũng dễ mai một.
Nhắc đến không khí làm nồi đất của xã
ngày trước, ông Nguyễn Hữu Tạo, Bí thư Chi bộ xóm 12 xót xa: Lọt lòng
mẹ, ông thấy trong làng nhà nào cũng làm nồi đất bán, trong khoảnh sân
nhà ai cũng có lò đốt nồi. Chợ quê bày la liệt nồi đất, tư thương và
người dân từ nơi khác nườm nượp về mua. Là nghề vất vả nhưng thợ nặn nồi
đất chủ yếu là phụ nữ. Lên 9, 10 tuổi, con gái xã này đã biết nhào đất,
nặn nồi; lấy chồng về xã khác mới chịu bỏ nghề. Phụ nữ xã khác, làng
khác về đây làm dâu cũng phải học cách nặn nồi đất.
Là xã nổi tiếng với nghề làm nồi đất
nhưng nguồn đất dùng nặn nồi lại không có sẵn ở Trù Sơn. Đất làm nồi
phải là đất sét, dẻo, không lẫn sạn, đá, thường phải đào sâu 2-3m so với
mặt đất mới có. Ngày trước, cứ hễ trời nắng ráo là 3-4 giờ sáng, đàn
ông trong xã đã nối đuôi nhau gồng gánh đi hàng chục km ra tận các huyện
Yên Thành, Nghi Lộc... để lấy đất làm nồi. Rời khỏi nhà từ lúc tang
tảng sáng nhưng đến 5-6 giờ chiều, cánh đàn ông mới đưa được đất về
làng. Sau này, phương tiện đi lại thuận tiện hơn, người dân Trù Sơn "đi
đất” bằng xe đạp, xe máy, rồi dùng cả xe bò lốp chở đất. Giờ đàn ông
trong xã cũng ngại đi xa lấy đất mà giao luôn việc "đi đất” cho một vài
hộ chuyên làm dịch vụ. Chất đốt dùng đốt nồi đất phải là thứ vật liệu dễ
cháy, tạo ra nhiệt độ nhẹ, tỏa đều, thường là rơm rạ, sau này được thay
bằng lá thông. Mỗi năm, các hộ làm nồi đất thường phải đi rừng đến 5-6
chuyến mới đủ chất đốt phục vụ nhu cầu.
Làm được cái nồi đất phải qua rất
nhiều công đoạn. Người làm nồi phải cắt xắn, đâm rồi nhào trộn đất thật
nhuyễn, nhặt bỏ tạp chất. Công việc này thường được cánh đàn ông đảm
nhận nhưng các công đoạn tiếp theo như vê đất, nặn nồi, gọt, làm đẹp,
phơi nắng, đem vào lò đốt không thể thiếu bàn tay khéo léo của người phụ
nữ. Người thợ phải tỉ mẩn, cẩn thận, kiên trì, chịu khó. Tuy nhiên,
công đoạn đốt nồi được xem là khó nhất bởi nếu nhiệt độ quá cao thì nồi
sẽ nứt hết, tất cả coi như công cốc. Lò đốt nồi là lò trần, không lợp
mái, gặp phải trời mưa, lò đang cháy dở thì chỉ có "trời cứu”. Thường
thì sau khoảng 10 ngày, mỗi gia đình sẽ cho ra lò một mẻ nồi. Việc đem
nồi đất đi bán được giao cho các đấng mày râu thực hiện. Họ gồng gánh
hoặc thồ xe ra tận miền Bắc, vào tận miền Nam để bán. Có những chuyến đi
dăm ba ngày nhưng cũng có những chuyến đi mất vài tuần mang theo niềm
hi vọng, mong ngóng của vợ con, gia đình ở chốn quê nghèo.
Còn đâu một thuở…
Ai vô Trù Ú mà coi
Cái nghề nồi đất truyền bao nhiêu đời
Chúng tôi về Trù Sơn vào một ngày cuối
năm. Cái nắng hanh đã neo vào lòng người nỗi nhớ một thuở cha ông hồ
hởi nhào đất, nặn nồi. Trước đây, số hộ gia đình không làm nghề nồi đất
của cả xã này chỉ đếm được trên đầu ngón tay thì nay, con số ấy lại lại
chiếm trên 90% số hộ. Cả xã hiện chỉ có 3 xóm duy trì nghề làm nồi đất.
Tính ra, cả xã chỉ còn không đầy 20 hộ làm nghề nồi đất. Ông Nguyễn Hữu
Tạo, Bí thư Chi bộ xóm 12 rầu rĩ: "Sợ rồi nghề này sẽ thất truyền mất
thôi. Đây không chỉ là nghề kiếm kế mưu sinh mà còn là nét đẹp của vùng
quê nghèo này, nó gắn liền với đời người như da như thịt, nay dứt ra
cũng đau lắm...”. Rồi như phân trần cái sự thất truyền ấy, ông Tạo tiếp
lời: "Nghề này vất vả, thu nhập "hẻo” lắm. Làm cật lực mỗi ngày cũng chỉ
thu về khoảng 50 nghìn đồng/lao động thôi. Lớp trẻ bây giờ đổ đi làm
công nhân, xuất khẩu lao động, ở nhà còn ông bà già, trẻ con, không đủ
sức theo nghề...”.
Trước đây, các gia đình chủ yếu nặn
nồi đất thì nay lại chủ yếu nặn niêu sắc thuốc, các loại nồi nhỏ nhưng
kỹ thuật khó, hình thức bắt mắt hơn để phục vụ việc nấu các món ăn tại
các nhà hàng, khách sạn. Gần đây, các hộ làm nghề tại Trù Sơn lại nặn
một dụng cụ gọi là ngoao đãi vàng (?). Chẳng biết có phải là họ dùng để
đãi vàng hay không nhưng tư thương đến tận nhà đặt cọc tiền, làm được
bao nhiêu cũng hết, số tiền thu được nhiều hơn. Tuy vậy, những người còn
theo nghề ở xã này cũng không muốn "gieo” nỗi vất vả lên con cái nữa.
Chị Nguyễn Thị Liên tại xóm 12 đã biết làm nồi từ khi lên 10 tuổi. Ngày
ấy, thấy người lớn nặn nồi, chị cũng làm theo, lâu dần thành quen,
"nghiện” từ lúc nào không hay. Dù vất vả nhưng hàng tháng chị cũng có ít
đồng thêm thắt vào cho con cái ăn học. Hai con gái của chị cũng đã lớn
nhưng chị không cho chúng tham gia mà chỉ động viên con gắng học hành.
"Ngày trước, gia đình nội ngoại tôi đều tham gia làm nồi đất nhưng dần
dần mai một, nay chỉ còn mình tôi ngồi nặn nồi. Tôi chỉ mong con cái học
hành thật giỏi, thoát ly cuộc sống khó khăn này chứ làm nồi đất biết
lúc nào khá lên được?” – chị Liên tâm sự.
Thoát khỏi nghề làm nồi đất, người dân
Trù Sơn vẫn nghèo. Nhiều ngôi nhà cũ kĩ từ đời xửa đời xưa để lại, nấm
mốc, rêu phong phủ đầy trên các bức tường, mái ngói. Kiến trúc hiện đại,
những ngôi nhà cao tầng ở vùng quê này vẫn chỉ là một thứ xa xỉ. Đàn
ông, đàn bà ngày xưa lúc nông nhàn thì "đi đất”nặn nồi nhưng nay thì
kiếm các nghề phụ khác như đi xây, làm mộc, "Nam tiến” hoặc xuất khẩu
lao động. Làng nghề đang dần bị mai một. Nhiều người nghĩ đến việc phục
dựng làng có nghề rồi "kiếm” cái danh hiệu làng nghề cho Trù Sơn nhưng
xem ra thật khó.
Theo: daidoanket
|