Làng
Tây Hồ là nơi sản sinh ra chiếc nón bài thơ - một vật dụng được xem là
mang cả vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Nằm bên dòng sông Như Ý, làng Tây Hồ (xã
Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế) từ lâu đã nổi tiếng với
nghề chằm nón lá truyền thống. Nghề chằm nón lá đã hình thành cách đây
hàng trăm năm và nón bài thơ – một nét đặc trưng của Huế cũng xuất phát
từ làng nón Tây Hồ (vùng đất đã từng nổi danh có nhiều cô gái xinh đẹp,
làm say đắm biết bao chàng trai trong vùng).
“Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Người
dân Tây Hồ luôn tự hào vì quê mình là nơi xuất xứ của nón bài thơ xứ
Huế. Chiếc nón bài thơ ra đời ở Tây Hồ như một sự tình cờ: Đó là vào
khoảng năm 1959 - 1960, ông Bùi Quang Bặc - một nghệ nhân chằm nón lá,
cũng là một người yêu thơ phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài
thơ bằng cách, ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẻ
đẹp của chiếc nón (lúc đó, nón lá ở Huế chủ yếu được bán vào thị trường
của các tỉnh phía nam). Hai câu thơ đầu tiên được ông Bặc ép vào chiếc
nón là: “Ai ra xứ Huế mộng mơ / Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.
Con
gái làng Tây Hồ chừng mười tuổi thì đã tự học chằm nón và có người suốt
đời chỉ theo nghề chằm nón. Còn đàn ông, ngoài việc đồng áng, họ cũng
phụ giúp phụ nữ làm công việc ủi lá hay chẻ tre để làm vành nón. Với cây
mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau
đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì nức vành
và ủi lá. Để có được lá đẹp, người thợ thường chọn lá nón vẫn giữ được
màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá,
người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau
nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Khâu (chằm) nón là công đoạn
quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ
khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối
cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm. Đường chằm phải mềm
mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Khi nón chằm hoàn tất, người ta đính thêm vào
chóp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên, sau đó
mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Điều làm
nên nét đặc biệt nhất của nón lá Tây Hồ so với sản phẩm cùng loại của
nhiều làng nón khác ở xứ Huế chính là dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón
nhã nhặn và đặc biệt nhất là những bài thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế được
cài trong chiếc nón.
Ban đầu, nón bài thơ được người dân Tây Hồ
làm để tặng người thân, không ngờ lại được mọi người yêu thích. Từ đó,
những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt, đưa ra
bán ở thị trường. Những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong
phú hơn, thường là những câu thơ về Huế. Ngoài ra để làm đẹp thêm cho
chiếc nón người ta còn ép vào đấy những bức tranh về sông Hương, núi Ngự
cạnh bài thơ. Trải qua một thời gian khá dài, chiếc nón bài thơ là sản
phẩm độc quyền của làng nón Tây Hồ. Rồi theo lẽ thường tình, những cô
gái làng Tây Hồ đi lấy chồng về các miền quê khác, họ mang theo nghề nón
lá truyền thống của mình và nghề làm nón bài thơ được lan truyền rộng
rãi khắp các miền quê.
Từ Tây Hồ, những chiếc nón bài thơ toả đi
khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường
nhật của mỗi phụ nữ Huế. Chỉ với nguyên liệu đơn giản của lá dừa, lá
gồi, những chiếc nón bài thơ vẫn trở thành vật “trang sức” của biết bao
thiếu nữ. Với nhiều người, lựa nón, lựa quai cũng là một thú vui nên
không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với
dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như
dịu lại trong cái nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng,
nón trắng và tóc thề. Những gương mặt trẻ trung ẩn hiện sau vành nón
sáng lấp loá đã trở thành một ấn tượng rất Huế, rất Việt Nam./.
Theo: Dulichhue
|