Tân Châu (An Giang) vang danh là xứ lụa. Thế nhưng nhiều năm qua về Tân
Châu lại thấy vắng tiếng khung cửi dập dồn, thiếu tiếng chày đêm dập lụa, và
đâu đó chẳng còn những bãi dâu xanh ngút một mầu. Ðọc lại bài viết của nhà
nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu về đất Tân Châu, tôi có đôi chút tần ngần, và ao ước
Ðề án bảo tồn và khôi phục nghề lãnh Mỹ A truyền thống Tân Châu sớm trở thành
hiện thực...
Nghệ nhân Út Sua (giữa) giới thiệu về sản phẩm
lụa Tân Châu.
Hàng
trăm năm trước, lụa Tân Châu đã ghi dấu ấn vào cuộc sống xứ này. Ðất Tân Châu
một thời phong lưu tao nhã, hưng thịnh bậc nhất cùng nghề ươm tơ dệt lụa. Trong
cuốn Tân Châu 1870-1964, xuất bản năm 1966 của tác giả Nguyễn Văn Kiềm có đoạn
viết: "... Giá một bó dâu lúc đó bằng một tháng lương của một tiểu công
chức. Nhiều ông chủ trồng dâu, dệt lụa phát giàu ngang xương, họ vung tiền tiêu
xài rất phung phí...". Còn trong cuốn hồi ký Nửa tháng trong Miền Thất
Sơn, hơn nửa thế kỷ về trước của Nguyễn Văn Hầu từng có đoạn "Sau khi xem
qua các xưởng dệt, lò nhuộm và ngắm xem ngút mắt những ngàn dâu xanh, chúng tôi
nghỉ đêm tại Tân An".
Vượt
kênh Xáng, qua phà Tân An, theo tỉnh lộ 952, chúng tôi tìm lại dấu ấn đâu đó
của những bãi dâu. Nhớ gần hai năm về trước, cũng một chuyến về Tân Châu, nhà
báo, nhà biên kịch Võ Ðắc Dự tâm sự với tôi rằng: Hơn hai mươi năm về trước anh
có về Tân Châu xem mấy ruộng dâu đẹp mê hồn, làng nghề ươm tơ dệt lụa lúc đó
vẫn còn khá sung túc. Vậy mà bây giờ tìm một cây dâu, con tằm xứ này đỏ mắt.
Dẫu kinh tế thị trường có phần lấn át, nhưng truyền thống sẽ sống và lãnh Mỹ A
sẽ mãi trường tồn. Lân la hỏi thăm về cây dâu, con tằm... rồi thất vọng. Chục
năm qua, những bãi dâu đã không. Giờ đây là những rẫy bắp, luống khoai xanh um mầu
xanh của sức sống mới. Và cây dâu, con tằm như đã không còn giữ vai trò là
nguồn sống, kế sinh nhai trong thời buổi kinh tế thị trường. May mắn thay, một
chị bán nước gần UBND xã Vĩnh Hòa chỉ đường cho tôi đến với vườn mặc nưa (trái
mặc nưa dùng để nhuộm mầu lãnh Mỹ A) duy nhất còn sót lại trong khuôn viên Di
tích cách mạng đình Vĩnh Hòa. Thấy tôi lúi húi chụp ảnh, chị bảo: Mấy cây mặc
nưa này còn lại nằm tại trong khuôn viên đình đó. Ở đây trước mặc nưa nhiều
lắm, nhưng giờ đốn hết rồi. Phần do sạt lở liên miên, phần vì còn ai dệt lãnh
nữa đâu mà để.
Tằm
tang là nghề của nhiều nghề, có quan hệ cộng đồng chặt chẽ và tương tác lẫn
nhau. Ðó là trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Hàng vạn con người vùng đất
đầu nguồn từng sống gắn bó với nghề, làm nên thương hiệu lụa Tân Châu - lãnh Mỹ
A nức tiếng. Bao thế hệ đã đổ mồ hôi và cố gắng sáng tạo để làm nên danh tiếng
của làng nghề này. Giờ ai còn ai mất, và mấy ai còn đang nghĩ về sự sớm suy tàn
này? Ðược sự hướng dẫn tận tình của anh Phương, tôi tìm gặp chú Út Ðặng (Nguyễn
Văn Ðặng hay Nguyễn Văn Trạng, 73 tuổi, ngụ phường Long Châu), một trong các
thợ dệt giỏi nhất trong vùng còn sống. Thấy khách lạ, lại hỏi về nghề mà chính bản
thân mình đã muốn quên đi, chú bảo: Thôi, cháu quan tâm nữa làm gì, làng nghề
còn đâu, nhắc lại thêm buồn! Mấy khung cửi dẹp bỏ, có cái chụm lửa luôn rồi.
Lãnh Mỹ A giờ ai mặc, nghề lụa cũng thoái trào rồi. Ðôi mắt chú nhìn bâng quơ
nhưng tôi biết, trong sâu thẳm trong suy tư của người thợ đã ngoài bảy mươi là
cả nỗi niềm đau đáu. Trong ký ức của người thợ dệt nổi danh còn sót lại trên
đất Tân Châu thì: Dạo ấy làm nghề hăng lắm. Hăng vì nhà ai cũng làm lụa, hãng
nào cũng tranh thủ làm hàng ngày đêm để xuất đi Nam Vang (Cam-pu-chia), đất
Xiêm (Thái-lan). Có ngày tui với đám học trò làm không ngủ, thay phiên nhau
chợp mắt để đập lụa, nhuộm, bắt chỉ... Nghề dệt này cần sự tỉ mỉ và sức khỏe
dẻo dai. Chệch một đường chỉ là hàng mất giá, lụa không thuần mầu là bán chẳng ra.
Mười mấy công đoạn mà sót hay chệch một khâu coi như thước lụa bỏ sông bỏ biển.
Vậy mà tự nhiên lụa chết dần, sau giải phóng còn dăm chục tiệm, giờ giải nghệ
hết trơn. Thợ dệt giỏi cũng không còn. Nghe đâu chỗ anh Tám Lăng chỉ còn làm
cho đỡ nhớ nghề. Vậy là nghề lụa coi như tiêu. Ðôi mắt tuy mờ vì thời gian, tay
chân đã yếu do sức khỏe, thế nhưng khi kể về nghề lụa, chú Út Ðặng dường như
khỏe hẳn vừa kể vừa bày tỏ nỗi say mê. Nghe tâm sự người thợ cả nghề lụa năm
nào, bỗng tôi nhớ lại mấy đoạn ghi chép của thầy Hầu tiếc nuối: Tôi làm sao
quên được sự niềm nở, tử tế của bà con trong vùng. Họ nghe chúng tôi đến xúm
lại thăm chơi, trò chuyện đến khuya. Nhà nho có, thợ dệt có, thợ nhuộm có...
Giữa hồi nghề ươm tơ thịnh vượng, ở đây ngày chí tối vang động tiếng chày nện lụa.
Tiếng cót két của trục quay tơ cùng với tiếng lách cách của những con thoi như
thi nhau qua những bàn tay nõn nà của các cô gái dệt.
"Trai
nào thanh bằng trai sông Của - Gái nào thảo bằng gái Tân Châu - Tháng ngày dệt
lụa trồng dâu - Thờ cha, nuôi mẹ quản đâu nhọc nhằn". Người Tân Châu đã
quen với những câu ca dao của một thời về xứ lụa. Bởi tự trăm năm trước, nghề
trồng dâu, dệt lụa đã mang lại nguồn kế sinh nhai và tạo tiếng vang lừng lẫy
khắp nơi. Hơn thế kỷ của một làng nghề đã ghi lại dấu ấn biết bao thăng trầm,
biến cố. Nhìn lại lịch sử, khi chiếm được Nam Kỳ, một trong các nghề thủ công
nghiệp mà thực dân Pháp quan tâm khai thác là nghề trồng dâu nuôi tằm. Pháp
chọn Tân Châu làm trọng điểm để thực hiện kế hoạch phát triển nghề tằm tơ trên
cả Nam Kỳ để cung cấp tơ tằm cho chính quốc. Viện Tằm tơ thành lập ở Tân Châu vào
tháng 7-1908. Tân Châu là trung tâm sản xuất và buôn bán tằm tơ nổi tiếng ở Nam
Kỳ và Cam-pu-chia lúc bấy giờ. Tân Châu ở trên vùng cù lao có đất đai, khí hậu
thích hợp với việc trồng dâu nuôi tằm nên năng suất trồng dâu và chất lượng tơ
nơi đây rất tốt. Thời hoàn kim của nghề tằm tang, cả quận ước chừng có 60 xưởng
dệt, 120 lò ươm. Tỉnh Châu Ðốc lúc bấy giờ có diện tích trồng dâu từ 200 đến
300 mẫu, chiếm từ một nửa đến hơn nửa diện tích trồng dâu của toàn Nam Kỳ. Mỗi
năm, Tân Châu tiêu thụ từ 4 đến 6 nghìn tấn tơ sợi. Ðầu thế kỷ 20, vùng đất Tân
Châu nức tiếng với hai hãng tằm nổi tiếng. Một hãng thành lập năm 1909 tại ấp
Long Hưng (xã Long Phú ngày ấy) gọi là khu Vịnh Ðồn (hay Trại Cưa) là hãng
trên, cơ ngơi khá đồ sộ. Hãng chuyên sản xuất giống dâu tằm thượng hạng cho cả vùng.
Hãng duy trì đến khoảng năm 1946 thì nghe đâu bị sạt lở rồi bỏ dở kinh doanh.
Hãng dưới thì gây dựng năm 1912, đối diện trường École Cantonale de Tân Châu
trên đường Nguyễn Huệ (năm 1945 đã bị phá hủy do chiến tranh). Hãng phát triển
được sáu năm thì làm ăn thất bại, nhượng lại cho Sở Canh nông Nam Kỳ, đến năm
1963 thì đổi tên thành Sở tằm tang Tân Châu. Còn theo ông Út Ðặng, vùng Long
Hưng có sáu miệng lò, ngày đêm cho ra lò hàng nghìn mét lụa như: lò Út Lượng
(rể là ông Út Sua nay vẫn còn xưởng dệt), lò Chín Ðởm, Chín Bốn, Bảy Ngộ, Tám
Sội, Hai Ðớt.
Tôi
tìm đến cơ sở dệt lãnh Mỹ A duy nhất còn sót lại ở Tân Châu của ông Tám Lăng
(Nguyễn Văn Long, 85 tuổi, ngụ ấp Long Hưng) - người cuối cùng của làng nghề.
Ông kể: Thời trước năm 1975, tôi theo nghề buôn mặc nưa từ xứ Cao Miên về. Sau
ngày giải phóng, thấy bà con nghỉ nhiều, mình thì lại thích nghề, liền cùng vợ
mua khung cửi, máy dệt, quần tụ thêm mấy tay thợ duy trì nghề dệt đến ngày nay.
Mấy năm trước, người con trai của ông, nghệ nhân Nguyễn Hữu Trí mày mò sáng chế
mấy mẫu mầu mới cho lãnh, mang lại hơi thở thời đại cho lụa Tân Châu. Vậy rồi
cũng chán, khi lụa Tân Châu không thể sánh được về giá cả, mẫu mã, mầu sắc của
hàng nghìn chất liệu vải vóc hiện đại. Ấy nên cái tâm của ông Tám, cái nhiệt huyết
của anh Trí và lịch sử làng nghề chẳng thể "vượt vũ môn của kinh tế thị
trường". Còn nghệ nhân Út Sua thì bảo: Lâu lâu cũng có người đến đặt làm
lụa, chủ yếu để làm quà tặng nhau. Mình cũng dệt nhưng thật lòng, dệt lụa chỉ
như sự hoài cổ về một thời tơ lụa mà thôi.
Tôi
quẩn quanh nhiều ngày ở Tân Châu, đọc đi đọc lại những tài liệu về xứ tằm tang
rồi nhìn thực trạng quá khác xa với những gì trong quá khứ. Liệu rồi đây, nếp
lụa Tân Châu, lãnh Mỹ A có mãi mãi đi vào quá khứ như sự nhắc nhớ, khắc khoải
về một hoài niệm của một thời? Và vì thế tôi những mong, Ðề án bảo tồn và khôi
phục nghề lãnh Mỹ A truyền thống Tân Châu sớm trở thành hiện thực.
Theo báo nhân dân