Vài năm trở lại đây, do thu nhập từ nghề thấp, các loại rá
nhựa, rổ nhựa, i-nốc tràn lan trên thị trường nên việc duy trì làng nghề ngày
càng khó khăn...
Ông Bùi Văn Giang ở đội 4, thôn Đan Giáp chỉ còn thu nhập 20 nghìn đồng/ngày từ
nghề đan thúng
Với đôi tay thoăn thoắt, ông Bùi Văn Giang (63 tuổi) ở đội
14 thôn Đan Giáp, xã Thanh Giang (Thanh Miện) vừa pha thanh tre, chẻ nan để đan
thúng vừa cho biết, gia đình ông đã theo nghề đan từ 6 - 7 đời nay, cha truyền
con nối. Gia đình chủ yếu đan thúng, rổ, rá… bán tại các chợ trong và ngoài
huyện. Những năm trước, nghề đan còn thịnh hành, cứ đến phiên chợ, người mua
hàng tấp nập, cả gia đình ông cùng làm nghề. Một vài năm trở lại đây, người dân
không còn sử dụng nhiều đến các loại thúng, rổ, rá mà quen dùng đồ bằng nhựa…
nên việc tiêu thụ hàng cũng giảm mạnh. Con cái ông bà không còn theo nghề
truyền thống của gia đình nữa mà đi xây, đi làm ở các công ty may trong và
ngoài huyện. Ở nhà chỉ có 2 ông bà, ngoài làm nông nghiệp, lúc nhàn rỗi vẫn
tranh thủ đan thúng mang ra chợ bán. Trung bình một ngày, ông bà đan được 2 đôi
thúng, mỗi đôi trừ chi phí được lãi 20 nghìn đồng. Như vậy, thu nhập một người
chỉ được khoảng 20 nghìn đồng/ngày. Ông Giang cho biết: "Tôi theo nghề này
từ nhỏ, nhà lại có nhiều đời gắn bó với việc đan nát, bỏ đi thì không đành nên
lúc nhàn rỗi cứ mua tre về làm. Nhưng việc tiêu thụ cứ ngày một giảm sút thì
cũng không biết duy trì như thế nào?".
Cũng là một trong những gia đình có nghề đan tre lâu đời, gia đình ông Nguyễn
Thành Xoan ở đội 13, thôn Đan Giáp lại bám trụ với nghề theo hướng khác. Những năm
trước, gia đình ông cũng đan rổ, rá, thúng… phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người
dân. Tuy nhiên, do hàng bán không chạy nên hơn chục năm nay, gia đình ông
chuyển hẳn sang đan thúng cho thương lái ở Quảng Ninh dùng để vận chuyển than
tại các lò. Gia đình ông thu mua các loại mê thúng của bà con trong thôn với
giá 5.000 đồng/chiếc, sau đó thuê nhân công cạp, nức và bán lại cho các thương
lái. Tuy nhiên, thời gian đầu còn khả quan, giải quyết việc làm thường xuyên có
từ 7 - 8 lao động, nhưng gần đây, việc tiêu thụ cũng giảm dần. Chỉ có kênh tiêu
thụ duy nhất là ở Quảng Ninh, nên khi họ không thu mua thì hàng hóa sẽ bị ngừng
trệ. Ngoài ra, ngoài việc vận chuyển than bằng thúng tre còn xuất
hiện các loại làm bằng cao su nên ảnh hưởng đến việc xuất
hàng. Những năm trước, trung bình 1 tháng, gia đình tiêu thụ được khoảng 9.000
chiếc nhưng năm nay chỉ còn khoảng 6.000 chiếc, thậm chí thấp hơn.
Làng nghề đan tre ở Đan Giáp được hình thành từ khoảng thế kỷ XVII và đã được
UBND tỉnh công nhận làng nghề từ tháng 9-2004. Ông Nguyễn Thanh Mùi, Trưởng
thôn Đan Giáp cho biết: “Những năm 1999-2003, thôn tôi lúc nào cũng nhộn nhịp,
lách cách cạp, nức… 100% số hộ làm nghề, thu hút tới 80% số lao động tham gia.
Các cháu bé 5 - 6 tuổi cũng đã biết ngồi đan. Nhiều gia đình xây dựng nhà cao
tầng cũng từ việc đan nát. Nhưng vài năm trở lại đây, do thu nhập từ nghề thấp,
các loại rá nhựa, rổ nhựa, i-nốc tràn lan trên thị trường nên việc duy trì làng
nghề ngày càng khó khăn”.
Thôn Đan Giáp hiện có 522 hộ với trên 1.800 nhân khẩu, nhưng chỉ còn chưa đầy
200 hộ là vẫn theo nghề truyền thống. Làng nghề gặp nhiều khó khăn, từ việc
thiếu nguyên liệu do xây dựng kiến thiết, chặt phá tre, đến tìm đầu ra cho sản
phẩm, cạnh tranh trên thị trường… Người trẻ không còn tha thiết học nghề, giữ
nghề. Trong làng chỉ còn những người già cố giữ nghề truyền thống.
Trong chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện và xã đều quan tâm tới việc
duy trì, phát triển làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, làng nghề Đan Giáp rất
cần có chính sách duy trì, tìm hướng đi mới cho các sản phẩm để đứng vững và phát
triển.
Theo báo hải dương