Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)
Giữa buổi trưa nhưng từ đầu làng cho đến cuối
làng vẫn vang tiếng đe, tiếng búa nện. Những tia lửa từ các thanh sắt đỏ rực
bắn tung tóe, nghề rèn mở rộng đã biến Bàn Mạch (xã Lý Nhân, huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc) thành một công xưởng cơ khí tất bật và tràn đầy sức sống. Các
lò rèn hối hả làm việc cho kịp hàng đặt mối. Thương hiệu hàng rèn thủ công Lý
Nhân đã và đang nổi tiếng khắp nơi…
Nổi danh làng nghề
Con đường vào thôn Bàn Mạch được bê tông hóa, các ngôi nhà cũ, nhà tạm giờ đây
đã được thay thế bằng nhà cao tầng khang trang... đã nói lên sự khởi sắc của một
vùng quê lúa nằm sâu trong quốc lộ. Bộ mặt nông thôn đã thực sự thay da đổi thịt
chính nhờ nghề truyền thống của cha ông để lại.
Theo lời kể của bậc bô lão trong làng thì nghề rèn đã có từ lâu. Trẻ làng rèn
sinh ra đã quen mắt, quen tai với tiếng búa quai, tiếng ống bễ phì phò thâu đêm
suốt sáng... Trong cuốn hương ước của làng, xa xưa Bàn Mạch chỉ là một làng thuần
nông, những ngày nông nhàn xa cái cày, cái cuốc, người Bàn Mạch lại tìm thú vui
trong những cuộc đỏ đen, trong chén rượu. Đến một ngày có ông quận công về
làng, chán cung cách làm ăn của người dân nơi đây mới mượn thầy giỏi về truyền
nghề, dạy việc... Nghề rèn Bàn Mạch ra đời từ đó. Đến nay, nghề này không còn
là truyền thuyết, mà đã trở thành chuyện miếng cơm, manh áo của người dân nơi
đây.
Nghề rèn trong thời kỳ kinh tế thị trường được giải phóng khỏi những o ép, khẳng
định sức sống của một làng nghề danh tiếng đã từng được Bác Hồ đặt 1.500 con
dao tặng cho đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc trước khi tiến hành chiến dịch
Biên giới 1950. Nghề rèn Bàn Mạch đi lên từ đó...
Ông Trần Văn Can - Trưởng thôn Bàn Mạch dẫn chúng tôi đi "thị sát"
một số lò có tiếng của làng. Ông cho biết, hiện cả thôn có 600/700 hộ sống bằng
nghề rèn. So với nghề nông, thu nhập do nghề rèn mang lại cao gấp nhiều lần và
là nguồn thu chính của người dân nơi đây.
Điều đáng nói là Lý Nhân đã nhanh chóng áp dụng khoa học vào sản xuất, từng
bước cơ khí hóa làng nghề để tăng năng suất và giảm nhọc nhằn cho người lao
động. Các hộ đã tự trang bị cho mình máy mài (máy rèn), máy cán thép, máy cắt
gọt kim loại, búa máy, máy dập nóng, dập nguội... để nâng cao năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm. Đây cũng là biện pháp sản xuất theo hướng tập
trung quy mô lớn, chuyên môn hóa ngành nghề, dần dần tạo dựng thương hiệu của
một làng rèn truyền thống.
"Sản phẩm của Lý Nhân có chỗ đứng trong thị trường không phải bởi sự lâu năm
của lịch sử làng nghề, mà là chất lượng của nó , chừng nào nghề nông còn tồn
tại thì chừng đó còn cần đến sản phẩm của chúng tôi "- ông Can cho biết. Mặt
hàng mà Lý Nhân sản xuất chủ yếu là các nông cụ như liềm, hái, dao, rìu, kéo,
các loại dao chuyên dùng cung cấp cho các nhà hàng kinh doanh hàng ăn uống và
dao đi nương dùng cho đồng bào dân tộc....
Nâng con dao lên phía ánh nắng mặt trời, ông Trần Văn Long, nghệ nhân 70 tuổi
chậm rãi: "Nói thật, nhìn nước thép đổi màu chúng tôi có thể nhận ra được đấy
có phải là con dao của Bàn Mạch hay không, thậm chí có thể gọi tên nó do nhà nào
làm ra. Đấy là bí kíp của cha ông mà không sách vở nào dạy hết...". Để có một
con dao tốt phải bắt đầu từ giai đoạn tôi. Sắt khối phải vừa tuổi lửa, non quá
dễ bị quăn lưỡi, già quá sẽ bị mẻ hoặc rạn.
Lý Nhân có phương pháp bổ thép với nước tôi không vùng nào có được. Miếng sắt
nung vừa chín tới được bổ đôi để nhồi lưỡi thép vào giữa theo một tỷ lệ phù hợp
với trọng lượng sắt. Mài cũng giữ một vai trò quan trọng. Đôi tai và con mắt
của người thợ lâu năm trong nghề chỉ cần nhìn vào hoa lửa bắn ra hoặc nghe
tiếng máy kêu cũng có thể biết được sản phẩm đã hoàn thiện hay chưa. Đấy chính
là lý do vì sao những người vùng khác đến học nghề không thể "lấy"
được bí kíp của người thợ Bàn Mạch. Một người thợ bình thường một ngày sản xuất
được trên 40 thành phẩm, tính cả xã con số dao, rìu, rựa... ra đời trong một
ngày trên dưới 2 vạn chiếc.
Dao sắc gọt chuôi
Theo ông Nguyễn Ngọc Vụ - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Lý Nhân, nghề rèn đem
lại thu nhập chính cho người dân nơi đây. Do đặc điểm đất canh tác hẹp, nên bà
con rất gìn giữ và phát triển nghề này.
Đã có một thời, các làng nghề rèn ở Lý Nhân chao đảo, tưởng như không còn đứng
nổi. Các lò rèn hoạt động cầm chừng, sản phẩm không tiêu thụ được. Nguyên nhân
là do người tiêu dùng bị ngợp trước sự xuất hiện ồ ạt của các loại dao, kéo nhập
ngoại từ Trung Quốc, Thái Lan, ồ ạt tràn vào thị trường Việt Nam, có mẫu mã đẹp,
màu trắng sáng không gỉ, giá rẻ hơn.
Nhưng rồi người dân lại trở lại với Lý Nhân bằng chính chất lượng sản phẩm, đẩy
lùi đồ "hàng mã" ngoại nhập. Ngược lại, nhiều khu chợ bên kia biên giới
cũng đã xuất hiện hàng hóa của Lý Nhân. Bởi các loại dao Thái Lan, Trung Quốc
thì lịch sự, hình thức bắt mắt, chứ dùng không sắc, chỉ một thời gian là cùn
mòn, khó mài được và nhanh phải bỏ đi. Trong khi đó, dao, kéo Lý Nhân dùng lâu
khi cần chỉ mài sơ qua lại dùng tốt.
Theo ông Can - Trưởng thôn, nghề rèn không chỉ có sức khỏe mà làm được. Học
được tinh thông nghề này, người nhanh nhẹn cũng phải mất đến 3 năm chuyên cần.
Không có sách vở nào ghi chép các bí quyết cả, chỉ có người đi trước truyền lại
cho người đi sau. Cho nên, thợ học việc phải nhẫn nại học hỏi, rồi cảm nhận bằng
sự tinh tế của tai, mắt, của bàn tay chính mình. Đến khi có thể làm được sản
phẩm sắc bén, rắn mà không giòn, dẻo mà không mềm, thì đã coi như thành nghề.
"Người làm nghề rèn ở Lý Nhân luôn nhiệt tình truyền dạy cho lớp thợ trẻ tâm
huyết để họ tiếp nối, không có chuyện giấu nghề, gìn giữ bí quyết đâu."
Nghề rèn truyền thống của Bàn Mạch - Lý Nhân hiện nay thu hút tới 70% số người
lao động trong độ tuổi của thôn và nhiều lao động từ các huyện, tỉnh khác trong
khu vực làm thuê, với thu nhập bình quân trên dưới 2 triệu đồng/người/tháng.
Hiện nay, làng nghề rèn Bàn Mạch đã được quy hoạch xây dựng thành một khu sản
xuất riêng, đảm bảo về môi trường, tránh tiếng ồn và ô nhiễm. Mỗi ngày làng nghề
có thể làm ra hàng vạn sản phẩm có chất lượng tốt, đem lại nguồn thu nhập lớn
và giải quyết việc làm cho phần lớn lao động trong thôn ./.