Ông
Lê Văn Vòng là một trong số nghệ nhân lão làng còn giữ được bí quyết về nghề
dát vàng ở làng nghề Kiêu Kỵ, xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Trải qua rất
nhiều công đoạn kỳ công, tỉ mẩn, với một chỉ vàng nguyên chất, khi đã qua bàn
tay tài hoa của ông cũng sẽ được dát mỏng tới mức có thể rải trên diện tích 1m2.
Thông thạo 40 công đoạn luyện quỳ
Đôi
tay chắc nịch quai búa, ông Lê Văn Vòng, 57 tuổi hiện nay là đời thứ 9 trong
một gia đình có truyền thống làm quỳ vàng. Ông Vòng vừa thoăn thoắt đập giấy
quỳ vừa chia sẻ với PV về kỹ thuật chế tác quỳ vàng: Để làm ra được một tấm
quỳ, người nghệ nhân phải trải qua ít nhất 40 công đoạn, mỗi công đoạn lại đòi
hỏi nhiều thao tác. "Làm nghề này phải rất tỉ mẩn, dày công, tốn sức” -
ông Vòng nói.
Nghệ nhân Lê Văn Vòng.
Theo
ông Vòng thì giai đoạn luyện quỳ được coi là nặng nhọc nhất. Người ta dùng một
loại giấy, cắt thành ô vuông rộng khoảng 5cm, để làm giấy quỳ, xếp thành bọc
giấy quỳ dày khoảng 2cm. Mỗi bọc giấy này sẽ được giã qua một lần cho phẳng lừ,
không tì vết. Giã xong, mỗi lá quỳ sẽ được quét lên một loại mực làm từ nhựa
thông, mùn cưa, hồ và keo da trâu. Mỗi một bọc giấy quỳ được hoàn thành, người
thợ phải phết mực ít nhất 3 lần rồi mới phơi khô, để đảm bảo độ bóng, mịn của
lá quỳ.
Công
đoạn tiếp theo là chế tạo vàng giã. Từ những chỉ vàng nguyên khối sẽ được nấu
chảy bằng nhiệt độ cao, đổ vàng đã tan chảy vào khuôn tráng thành phiến mỏng.
Với miếng vàng mỏng, ta cắt thành những ô khoảng 2cm rồi kẹp vào lá quỳ. Xếp
chúng thành một bọc xen kẽ giữa miếng vàng nhỏ và những mảnh giấy quỳ đã được
giã.
Dùng
một tấm vải để gói những miếng vàng quỳ đã được kẹp xen kẽ thành từng bọc thật
chắc, tránh để chúng xô lệch, xê dịch vị trí của miếng vàng và miếng giấy quỳ.
Đặt những bọc đó trên một tảng đá nhẵn và to rồi dùng búa giã liên hồi. Công
đoạn giã này cần được đánh liên tục để cho lá vàng mỏng đều. Nếu không đập liên
tục sẽ dễ hỏng giấy quỳ mà miếng vàng mỏng không đồng đều, rất dễ bị rách. Giã
xong, gỡ những miếng vàng thành từng miếng nhỏ, mỗi dát vàng, bạc có thể cắt
thành 9 đến 12 miếng vuông nhỏ, có cạnh chừng 1cm.
Ông
Vòng cho biết: Giai đoạn long quỳ cũng rất kỳ công. Những lá vàng cắt nhỏ lại
được xếp xen kẽ vào giữa các lá quỳ (gọi là long quỳ). Một long quỳ có từ 400
đến 500 lá. Dùng thanh tôn để chế tạo thành những thanh bay (thanh bay có mũi
nhọn như dao) để gắp lá vàng dễ dàng hơn, chuẩn xác hơn. Tiếp tục giã cho thật
mỏng, giai đoạn này sẽ quyết định vàng dát có màu sáng óng hay xỉn.
Làm vàng quỳ phải trải qua rất nhiều công đoạn.
Thăng trầm với nghề giã vàng
Dưới
cái nắng oi nồng mùa hạ, bàn tay chai sạn của ông Vòng vẫn đều đều đập vào
miếng giấy quỳ đôm đốp, mồ hôi chảy nhễ nhại thấm ướt áo, nhưng điều đó không
làm cho câu chuyện giữa PV và ông bị đứt đoạn. Với chất giọng vang, nghệ nhân
Vòng rất tự hào về lịch sử làng nghề Kiêu Kỵ. Ngày đó, Kiêu Kỵ thuộc đất Đông
Ngàn, Kinh Bắc. Ông Nguyễn Quý Trị được coi là ông tổ của làng nghề. Ông đỗ
Tiến sĩ thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786). Năm 1763, ông được cử đi sứ sang Trung
Quốc, ông đã học sơn son thiếp vàng bằng cách luyện quỳ vàng, bạc để sơn thếp
lên các bức tượng, câu đối, hoành phi. Khi về nước, ông đã dạy lại nghề cho
người dân làng Kiêu Kỵ. Sau khi ông mất, dân làng đã dựng đền thờ tưởng nhớ.
Làng nghề đã trải qua hơn 400 năm tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Trước
đây, người dân Kêu Kỵ cũng đủ kiêu hãnh với những sản phẩm mình làm ra. Có một
thời ky,â làng nghề này đã được vua chọn lên để dát vàng ở khắp cung vua, phủ
chúa. Hiện nay, Kiêu Kỵ vẫn là làng nghề duy nhất trong cả nước chuyên làm quỳ
vàng, quỳ bạc. Bất kể ở đâu, khi bắt gặp những sản phẩm được mạ vàng, bạc những
người dân nơi đây cũng cảm thấy kêu hãnh vì sản phẩm của mình có mặt ở khắp
nơi. Người làng Kiêu Kỵ còn tự hào rằng mình đã góp phần "may những chiếc
áo vàng" để dát lên những công trình quan trọng trong cả nước như: Quốc Tử
Giám, Chùa Bái Đính. Bên cạnh đó còn rất nhiều chùa chiền, lăng tẩm của các
dòng họ lớn khắp cả nước.
Cùng
với sự phát triển của xã hội, cũng như những nhu cầu của xã hội làng nghề
Kiêu Kỵ cũng làm những loại quỳ khác như quỳ tân (quỳ thiếc), quỳ bạc. Nhưng
phát triển nhất vẫn là quỳ vàng. Bác Vũ Thanh Ngọc, 56 tuổi, một nghệ nhân giải
nghệ, giãi bày: "Trước cách mạng Tháng Tám, nghề làm vàng quỳ rất phát
đạt. Những sản phẩm do làng Kiêu Kỵ làm ra được cung cấp cho tất cả các công
trình, tín ngưỡng cung đình để dát ngai vàng, kiệu rước, các tượng phật, hoành
phi, câu đối... Trong kháng chiến làng nghề dường như bị mai một, người dân
chuyển sang làm đồ dùng bằng da và giả da. Khi đất nước thống nhất cho đến thời
kinh tế thị trường, các công trình văn hóa và di tích lịch sử đang dần được
khôi phục và phát triển nên đã vực dậy làng nghề". Nghệ nhân Ngọc cho
rằng: Có thời kỳ, cơ sở sản xuất hộ gia đình thuê 20 đến 30 lao động để sản
xuất vẫn không đáp ứng không đủ nhu cầu của thị trường. Sau này, do một số
nguyên nhân về đầu ra cho sản phẩm nên nhiều hộ đã không sống được bằng nghề.
Họ đã chuyển nghề. Đa số chuyển sang làm các sản phẩm về da hoặc làm kinh doanh.
Bản thân ông cũng đã phải từ bỏ nghề truyền thống để mở một quán phở.
Trao
đổi với PV, ông Vũ Doang Thêm, Phó thôn Kiêu Kỵ lắc đầu ngao ngán: "Hiện
nay, trong làng chỉ còn 20/700 hộ theo nghề. Người dân đã không mặn mà với nghề
truyền thống. Một số người luyến tiếc nghề cũng không thể mở xưởng tại gia
đình, phải chuyển đến các vùng khác hành nghề. Những nghệ nhân lành nghề như
ông Vòng cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay".
Ông
Thêm cho biết thêm, trong làng có xuất hiện một số hộ sản xuất tư nhân, nhưng
nhân công lại là những người từ vùng khác. Người ta tận dụng giá nhân công rẻ,
còn những người dân trong làng, biết chút nghề không ai chịu làm. Thậm chí, ở
một số cơ sở sản xuất biến tướng, có hiện tượng nhập lậu những sản phẩm từ
Trung Quốc về để lấy mác của Kiêu Kỵ. Họ gia công bằng cách pha thêm tạp chất
vào vàng khiến sản phẩm không đạt được độ mỏng, độ bóng cao. Những hành động
kinh doanh chạy theo lợi nhuận đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến làng nghề Kiêu Kỵ.
Anh
Hà Văn Tuấn, quê Thanh Hóa, tay vừa nhấc chiếc búa nặng khoảng 3 cân giã đôm
đốp nặng nhọc, miệng than thở: "Mỗi bọc quỳ đánh trong khoảng thời gian
một tiếng, trung bình một tiếng tôi đánh gần một ngàn nhát búa. Công việc vất
vả nhưng lương cũng chỉ được hơn 2 triệu đồng/tháng, không làm thì không biết
làm nghề gì khác".
Nghệ
nhân Lê Văn Vòng tâm sự: "Cả làng còn có 5 nghệ nhân. Hiện chỉ còn một phần
ba những hộ trong làng theo nghề dát quỳ vàng, quỳ bạc. Cứ mở mắt ra là nghe
thấy tiếng búa đập quỳ đã thành thói quen, nếu trong làng mà không còn nghe
được những âm thanh thân thương ấy chắc chắn lòng tôi buồn lắm!"...
Đôi
tay ông Vòng vẫn giã đều đều từng nhát đôm đốp vào miếng quỳ, đôi mắt nhìn xa
xăm: "Làng nghề Kiêu Kỵ hôm nay giàu có hơn, nhà cửa khang trang hơn, cuộc
sống nhộn nhịp hơn. Thế nhưng, âm thanh đánh quỳ quen thuộc lại trở nên vắng
dần và có nguy cơ lạc vào quên
lãng..."
"Trại" quỳ... trong màn
"Trại"
quỳ là giai đoạn đòi hỏi tỉ mẩn và tinh tế nhất. Những người nghệ nhân sẽ xếp
từng miếng dát vàng lên giấy quỳ, phải thật cẩn thận để chúng không bị rách
hay dính vào tay. Những lá vàng, bạc này mỏng đến mức chỉ cần một hơi thở
cũng có thể thổi bay. Do vậy, công đoạn này cần được thực hiện ở một nơi kín
gió và tĩnh lặng. Các nghệ nhân vẫn hay đùa rằng, chỉ cần thổi một cái là nó
bay lên một tiếng sau mới rơi xuống được đất. Chính vì vậy, người thợ
thực hiện công đoạn này ở trong màn, tuyệt đối không được nói chuyện, thở
cũng phải thật nhẹ. Nghệ nhân "trại" quỳ phải tỉ mẩn đến mức… nghẹt
thở.
Sau khi thực hiện được tất cả những giai đoạn ấy người thợ
mới thu được sản phẩm cuối cùng. Mỗi quỳ vàng gồm có 10 bọc giấy, mỗi bọc có
40 - 50 tờ. Một chỉ vàng có thể dập thành một nghìn tờ giấy nếu đem rải ra sẽ
có diện tích hơn 1m2 đủ để tưởng tượng là vàng đã được dát mỏng đến mức độ
nào? Những miếng vàng đã được giã mỏng sẽ được dùng để dát những câu đố bằng
vàng, những bức hoành phi cao sang quyền quý ở các chùa chiền, lăng tẩm, đền
thờ, phủ…
|
Theo người đưa tin