Tại Hòa Bình vừa diễn ra Hội thảo khoa học về Không gian văn hóa cồng chiêng Mường.
|
Cả các bố mế Mường vẫn say sưa cồng chiêng trong lễ hội Khai Hạ hàng năm
|
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và nghệ
nhân đã tham dự với những tham luận và đề xuất với các cơ quan chuyên
ngành quản lý Văn hóa Du lịch lịch sử, giá trị văn hóa cồng chiêng của
người Mường nhằm phát huy di sản quý báu này của dân tộc Mường – một
trong số những dân tộc cổ truyền và chiếm số lượng lớn ở nước ta. Nhân
dịp này, Tamnhin.net xin giới thiệu bài viết của tiến sĩ Nguyễn Việt,
Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á.
Chiêng thuộc loại hình nhạc cụ bằng kim loại phát ra âm thanh nhờ việc
“gõ” bởi một vật khác (dùi hoặc tay) vào phần mặt phẳng kim loại tròn.
Khi gõ, thanh âm từ màng rung kim loại đó lan ra phần vành, bị chặn lại
bởi một băng viền vành sẽ dội ngược trở lại, tạo ra âm rung vang vọng
rền lâu. Với tư cách là một nhạc cụ gõ trên mặt phẳng kim loại tròn,
chiêng có phần nào giống với trống đồng. Tuy nhiên, so với trống đồng,
phần viền của chiêng thu ngắn hơn rất nhiều, tạo hình dáng gọn nhẹ và
thường bản mặt đặt ở tư thế dựng đứng, thuận tiện cho một người sử dụng
với một tay cầm dây quai chiêng, tay kia gõ thẳng hoặc cầm dùi gõ. Dạng
nhạc cụ gõ như kiểu cồng chiêng hiện nay có thể phân thành hai loại hình
khác nhau : Chiêng và Thanh la. Chiêng có núm nổi cao ở giữa, khi gõ
chủ yếu tác động vào phần núm đó. Trái lại, Thanh la mặt gõ phẳng.
Với định danh như vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng những chiêng đồng
cổ nhất ở Việt Nam có thể là nắp của những chiếc thạp đồng Đông Sơn.
Cùng một suy nghĩ như vậy, nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài cùng đã từng
gọi những “nắp thạp” như vậy bằng thuật danh “gong” – ghi âm bằng chữ
latin từ âm “cồng” của tiếng Việt. Trong thực tế, những nắp thạp đồng
Đông Sơn đều phồng cong và ở chính giữa có mặt trời và các vành trang
trí không khác lắm so với mặt trống đồng. Hai bên vành nắp thạp luôn có
quai, tương ứng với đôi quai ở thân thạp, vốn dùng để buộc phần nắp với
phần thân. Nhưng cặp quai đó có thể sử dụng để buộc dây làm thành quai
cầm dựng đứng nắp thạp khi gõ nó như một chiếc chiêng. Ở một nắp thạp
dạng Đông Sơn như vậy đào được ở Vân Nam (Trung Quốc), người ta thấy rõ
một tai vành khuyên gắn ở viền ngoài nắp thạp. Bên cạnh trống đồng Ngọc
Lũ nổi tiếng, nhóm thợ đào đất ở làng Như Trác xưa cũng tìm thấy một nắp
thạp lớn, được các học giả Pháp mô tả như một chiếc “gong”. Có lẽ sẽ dễ
hiểu điều này, khi mà vào cuối thời kỳ Văn hóa Đông Sơn xuất hiện loại
hình nhạc cụ gõ hình dáng giống như một chiếc chậu úp, phần đáy chổng
lên trên, chính giữa bao giờ cũng có phần núm gõ hình mặt trời nhiều
tia. Nhạc cụ này được gõ ở tư thế úp xuống hay dựng đứng như chiêng đều
được.
Với những chứng cứ khảo cổ học nói trên, chúng ta có thể tin rằng nguồn
gốc của những chiếc chiêng đồng chuyên biệt sau này đã xuất hiện sớm
nhất từ thời Đông Sơn cách ngày nay khoảng 2500 năm.
Những chiếc chiêng Mường cổ gần ngàn năm tuổi trong nhà một người sưu tầm cổ vật
Khi nói đến hệ thống chiêng gắn với người Mường, chúng ta hoàn toàn có
thể coi những nhạc cụ gõ bằng đồng hình mâm tròn có núm ở giữa, có hai
hoặc ba quai ở viền vành thường đào được ở vùng đất Mường cùng thời với
gốm thời Hoa Lư, Lý – Trần và trống đồng Mường, là tiền thân trực tiếp
của các chiêng Mường hiện nay. Loại hình chiêng này trông khá giống với
những chiếc “thanh la” ngày nay. Mặt gõ phẳng không có núm cao, vành
viền cuốn nhẹ, ngắn như viền của một chiếc đĩa. Một vài chiếc “chiêng”
thời này trang trí mặt trời nhiều cánh, còn lại đa phần chỉ là một núm
tròn nhỏ ở chính giữa. Đáng chú ý là hệ thống hai hoặc ba quai ở vành
ngoài không cân đối, chứng tỏ khi sử dụng chiêng được mắc quai và cầm
một tay như chiêng hiện nay. Khác với những “nắp thạp” hay “trống chậu”
thời Đông Sơn, các “thanh la” sớm này đa phần được gò chứ không phải đúc
bằng khuôn ba mang.
Kiểu chiêng như chúng ta thường thấy hiện nay có lẽ mới chỉ xuất hiện
vài ba trăm năm nay thôi. Khá hiếm trường hợp đào được loại chiêng này
từ trong các ngôi mộ. Sự khác biệt rõ nét so với các loại hình “chiêng”
tiền thân là ở phần núm to, nổi cao ở chính giữa mặt chiêng. Kiểu chiêng
núm này phổ biến rộng gần khắp các nước Đông Nam Á. Khác biệt thường
chỉ ở độ cao thấp của phần vành viền chiêng mà thôi. Chiêng loại này ở
Phillipin, Malaysia, Indonesia có phần vành viền cao hơn chiêng Việt
Nam. Tôi cho rằng sự hiện diện chiêng núm to ở Đông Nam Á là cùng một
nhịp và cùng nguồn gốc.
Chiêc "gong" Đông Sơn thuộc loại sớm nhất với hơn 2000 năm tuổi
Truyền thống cồng chiêng Tây Nguyên, về logic, có thể gắn với sự tồn tại
khá sớm của các trống đồng Đông Sơn ở trong vùng (khoảng 2000 năm trước
đây). Tuy nhiên, chúng ta chưa thấy các nắp thạp hay chậu trống ở vùng
này. Thêm nữa, trong các mộ táng Tây Nguyên chúng ta cũng chưa thấy hiện
tượng chôn theo các chiêng kiểu “thanh la” đồng như ở đất Mường (Thanh
Hóa, Hòa Bình). Vì thế, tôi ngờ rằng thói quen sử dụng rượu cần đi kèm
với cồng chiêng của người Tây Nguyên gắn với làn sóng di chuyển của
những khối cư dân Nam Á từ vùng Bắc Việt Nam, trong đó đợt di chuyển lớn
và gần nhất chính là cuộc nam tiến, tây tiến của các đời chúa Nguyễn. Ở
đây xin nhấn mạnh những yếu tố văn hóa Mường in đậm trong văn hóa cung
đình Huế mà Giáo sư Từ Chi đã nhiều lần giới thiệu. Ví dụ, chiếc vạc lớn
trong cung đình Huế là kiểu vạc Mường. Nhiều món ăn cung đình rất giống
món ăn trong các nghi lễ Mường. Người Tây Nguyên đều mua hoặc đặt làm
chiêng, thanh la đồng từ những thợ Huế, Quảng Nam có nguồn gốc từ phía
Bắc di cư theo chúa Nguyễn.
Xét về giai điệu thì cồng chiêng Mường đã đi xa hơn cồng chiêng Tây
Nguyên rất nhiều. Cồng chiêng Mường mà thực chất là cồng chiêng “Nhà
Lang” ít nhiều đã mang tính chất cồng chiêng “cung đình” với nhiều cấp
thanh điệu kết hợp các loại âm vực chiêng khác nhau tạo ra “bài” cụ thể :
“đón khách”, “đưa khách”, “gọi hồn”, “đưa hồn”…Trong khi đó, nhìn chung
cồng chiêng Tây Nguyên mới chỉ dừng ở những giai điệu mang tính làm
nhịp cho những điệu nhảy múa, di chuyển theo chu kỳ khá đơn giản.
Chúng ta mừng rằng UNESCO đã công nhận di sản văn hóa phi vật thể cồng
chiêng Tây Nguyên, nhưng chúng ta cần biết hơn đến một nguồn cội cồng
chiêng sâu xa từ hàng ngàn năm trước của truyền thống cồng chiêng Việt
Mường, trong đó, chính cư dân Mường là người đã liên tục duy trì truyền
thống cồng chiêng và đã đưa nghệ thuật cồng chiêng tới mực phát triển
cao nhất.
Chi tiết một chiếc chiêng Mường cổ gần ngàn năm tuổi
Chiêng đồng có núm trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Philippin
Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương
chụp ảnh chung với đội cồng chiêng nghiệp dư xã Vĩnh Tiến, huyện Kim
Bôi, tỉnh Hòa Bình nhân dịp đến thăm và làm việc với Trạm nghiên cứu Hòa
Bình của Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á
Nhạc cụ gõ hình Chậu của văn hóa Đông Sơn cũng được coi như một dạng tiền thân của cồng chiêng sau này
Chiếc thạp đồng thời Đông Sơn có phần nắp có thể dùng như một chiếc chiêng
Theo tamnhin