Bức tranh mang tên "Thổ cẩm" của họa sĩ Nguyễn Chính.
"Hoa lá lung linh trên tranh anh. Có những cụm đốm vàng rộn
rã trong lá xanh như cánh bướm tíu tít trên cánh đồng bình yên..." -
Thái Bá Vân.
Họa
sĩ Nguyễn Chính sinh năm 1953 tại Nghệ An, nhưng cả đời sống và sáng
tác tại thủ đô. Mùa xuân này, ông bước vào tuổi 60, tròn một hội tuổi,
hội chơi với đất trời sông núi.
Vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX, nhắc đến bột màu, đến tĩnh vật là nhắc đến Nguyễn Chính.
Để
có chỗ đứng nào đó trong làng mỹ thuật, một tên gọi gắn với chất liệu,
đề tài như lụa Nguyễn Phan Chánh, gốm Nguyễn Văn Y, phố Bùi Xuân Phái…;
thì đó không chỉ là tài năng, là sự phấn đấu mà còn là một may mắn.
Tôi
không dám so sánh Nguyễn Chính với các vị tiền bối đó. Nhưng chắc chắn,
anh đã có nỗ lực rất lớn trong cuộc đời làm nghệ thuật của mình, một sự
phấn đấu gian khổ không chỉ vì cái đẹp mà còn cả vì mưu sinh. Và anh cũng có cả may mắn khi tên anh được gắn cho không chỉ một mà cho cả ba: Chính bột màu, Chính tĩnh vật, Acrylic Nguyễn Chính. Tranh của anh không chỉ được ưa chuộng trong nước mà còn có mặt trong một số bảo tàng nước ngoài.
Trên
nền chung, mỗi người nghệ sĩ đều có một quan niệm thẩm mỹ, một phong
cách nghệ thuật riêng. Nguyễn Chính quan niệm rằng, cái đẹp là sự bình
dị; nhìn bề ngoài có thể im lặng, khiêm nhường, nhưng bên trong là lửa
nóng, là sự chuyển động không ngừng. Cái đẹp, đơn giản hơn, mỗi bức
tranh được vẽ ra, nhằm ghi lại bằng hồn mình một phần cái đẹp khi hiển
lộ, khi ẩn giấu của cuộc sống để làm người ta yêu cuộc sống này hơn.
Để
làm người ta yêu cuộc sống, trước hết chính người nghệ sĩ phải trân
trọng, nâng niu cuộc sống này. Không nói tới những năm “Tất cả vì tiền
tuyến”, những năm làm việc trong cơ quan nhà nước thời bao cấp, phần vì
con người phải thực hiện bộn bề những “bổn phận” của mình, phần vì không
có điều kiện; thì nhiều năm gần đây, họa sĩ Nguyễn Chính thường cùng
người bạn đời của mình, chị Lê Bích Hà, rong ruổi khắp mọi nẻo đường đất
nước hàng tháng trời, khi Tây Bắc, khi Tây Nguyên…; khi mùa hoa, khi
mùa lúa chín; đặng ghi lấy vào mắt, vào tranh những nét đẹp của đời.
Chọn “Tĩnh vật” (Nature morte) hẳn
Nguyễn Chính cũng biết rằng, có thời phương tây xếp loại tranh này thấp
nhất trong thang bậc các loại tranh mà đứng đầu là tranh lịch sử.
Nhưng
hơn nhiều loại hình khác, “tĩnh vật” được ra đời sớm cùng với bình minh
nhân loại và hầu như họa sĩ nào, người thưởng ngoạn nào, thời kỳ nào
cũng dành một sự quan tâm thích đáng cho tranh tĩnh vật. Lịch sử hội
họa ghi nhận, sự ghi nhận theo truyền thuyết rằng, họa sĩ Hy-lạp Zeuxis
sống ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã vẽ một chùm nho giống đến nỗi
chim chóc nhầm nho thật nên đến mổ ăn. Sau đó, người ta tìm thấy các
bức bích họa về những lẵng hoa quý ở các bức tường của thành phố Pompei.
Các bức tranh về chim chóc, hoa lá (hoa điểu) của Phương Đông từ xa xưa
cũng có thể coi là những bức tranh tĩnh vật, dù thuật ngữ này đến thế
kỷ XVIII mới xuất hiện ở châu Âu.
Họa sĩ Chính với những tác phẩm trừu tượng mới.
Nói đến tĩnh vật
là nói đến sự đứng im, sự yên lặng của sự vật. Triết học Phương Đông đề
cao cái tĩnh, coi cái tĩnh là tuyệt đối, là bất biến. Phương Tây coi sự
vận động là tuyệt đối. Thật ra, đó là hai mặt cùng tuyệt đối và bất biến
của sự vật, của thế giới. Xét cho cùng, thì không chỉ tranh tĩnh vật mà
mọi sự vật trong mọi loại tranh đều là tĩnh. Cái động nằm trong ánh
mắt và sự tưởng tượng của người xem, nhưng trước hết phải có trong người
vẽ. Trong tranh Nguyễn Chính, có lẽ trên cơ sở nhận thức ấy, đã thể
hiện một cách sáng tạo, lý thú giữa tĩnh và động.
Cái tĩnh mênh mông, bất biến; mà cái động cũng bao trùm, được nhìn thấy
ở mọi góc tranh, mọi hình, nét và chuyển biến có nhịp điệu của các sắc
màu. Tâm hồn họa sĩ, tâm hồn người xem chuyển động và được bồi, lắng
theo nhịp điệu của các hòa sắc. Dường như nhẹ mà sâu, dường như vui, như
rực rỡ mà man mác… đó là cảm xúc thường cùng đến khi xem tranh Nguyễn
Chính.
Về
lý thuyết, chúng ta có thể thừa nhận với nhau rằng, tranh tĩnh vật được
vẽ để ca ngợi sự sống, kêu gọi hưởng thụ những cái đẹp gần gũi và thực
tế như hoa quả, rượu trà, không gian sống tự nhiên. Nó làm rực rỡ cái
bình thường xung quanh. Sâu xa, đó là cảm thức, là sự lo lắng và kinh sợ
trước sự ngắn ngủi của đời người giữa cái đẹp vô tận của tự nhiên. Thí
dụ, các họa sĩ thời kỳ đầu Phục hưng đã vẽ cái đầu lâu đặt giữa các món
ăn ngon. Trong tranh tĩnh vật, ngoài tả thực, vẫn có đất rộng cho các
bút pháp khác.
Tranh nói chung, Tranh tĩnh vật của Nguyễn Chính có gì khác?
Vẫn
là những điều cơ bản ấy nhưng hoa lá của anh là hoa lá Việt Nam, cái
nhìn của anh là cái nhìn của một người Việt Nam yêu đời, yêu người, làm
chủ được chất liệu (bột màu, sơn dầu, acrylic). Đặc biệt, trong cái rất
thực, thực như thật của anh, lại rất biến ảo. Biến ảo đến huyền ảo nhưng
vẫn giản dị, không hề có vẻ gì cầu kỳ, bí hiểm. Xem tranh Nguyễn Chính,
người ta không có cảm giác choáng ngợp bởi sự kỳ vĩ của một thiên tài.
Nhưng ở nhiều bức tranh, như Người bán khèn,
người ta bị mê hoặc ngay bởi vẻ đẹp lộng lẫy của người con gái Mông với
váy áo rực rỡ của muôn sắc hoa rừng, của tuổi dậy thì. Cái khèn chỉ còn
là vật tượng trưng, còn bản nhạc cất lên từ màu sắc, ánh sáng, từ những
đường cong nổi và nhòa, ẩn và hiện; nhất là từ đôi mắt đang cháy. Đôi
mắt ấy sắc và lạ, thậm chí không hiền, nhưng lại thể hiện thành công
khát vọng, về sự chờ đợi những cái gì thật sâu hơn, xa hơn, khác thường
hơn cuộc sống của cô.
Vẽ về thiếu nữ, Nguyễn Chính còn có Nắng mềm, Quả chín…Tôi yêu bức Quả chín vì nó còn mềm hơn cả nắng mềm. Có gì đó cầm được, liên tưởng được và có gì đó đang bay.
Ở bức Hoa đỏ,dường
như ánh sáng đang ríu rít nở hoa. Còn các cánh hoa thì đang bay, đang
“căng ” hết mình ra để sống hết một đời hoa, để cuốn theo chiều gió, dù
đó là gió từ chiều nào thổi tới. Và bản thân cái bình,thông thường chỉ
là cái chứa đựng, cũng không cam phận làm cái chứa đựng. Nó đang chuyển
về màu, chuyển về hình để sống đời sống của hoa, chỉ gửi lại cái bóng
của mình cho hiện tại.
Sự chuyển
động mạnh và tinh tế là đặc điểm nổi bật trong tranh Nguyễn Chính. Ở đó
thấy chiều của lực, thấy chuyển động của vật, thấy sự sắp xếp, bổ sung
của các yếu tố tượng trưng, thấy chuyển động quang học và thấy chuyển
động của chính ta.
Tất cả
được thổi từ hồn Nguyễn Chính, tâm hồn của một nghệ sĩ rất lãng mạn,
rất yêu đời, nhưng cũng rất hiện thực, rất cơ bản và vững vàng nghề
nghiệp.
Bức tranh "Người bán khèn".
Nhận xét về tranh Nguyễn Chính, nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân - một tài năng hiếm có trong lĩnh vực này đã viết: “Hoa
lá lung linh trên tranh anh. Có những cụm đốm vàng rộn rã trong lá xanh
như cánh bướm tíu tít trên cánh đồng bình yên. Có những chùm hoa dại
bâng khuâng màu tím, mà độ đậm nhạt vừa đủ để thấy chúng lay động bởi
cơn gió nằm chính trong con mắt chúng ta”.
Còn Nguyễn Chính thì tâm sự: “Tôi làm nghệ thuật không phải để nổi tiếng. Mục đích của tôi là làm cho mọi người yêu cuộc sống này hơn”!
Với người có mục
đích như vậy, cũng khó bàn thêm về tranh của họ. Tôi bỗng nhớ tới tuyên
ngôn của Kadinsky, họa sĩ Nga, một chủ soái của phái trừu tượng: "Chúng
tôi không chủ tâm truyền bá một hình thái cụ thể nào. Mục đích của
chúng tôi là muốn trình bày qua những hình thức đa dạng để đưa ra cái
khát vọng của người nghệ sĩ là được thể hiện nội tâm của mình bằng nhiều
ngôn ngữ khác nhau”.
Nội tâm, hay cách gọi khác là “tất yếu nội tại” (Necessite’ Interieure)
- cách gọi của nhà thơ Pháp Paul Eluard. Tôi nghĩ Nguyễn Chính đã đạt
đến, đã thể hiện thành công cái necessite’ interieure của mình./.
Theo dvt