Trăm nghề hội tụ
Các
làng nghề truyền thống của Hà Nội có lịch sử hàng trăm năm như: gốm sứ
Bát Tràng hình thành cách đây 600 năm, sơn mài Hạ Thái, mây tre đan Phú
Vinh 400 năm, khảm trai Chuôn Ngọ 1.000 năm, xa hơn nữa là làng nghề dệt
lụa Vạn Phúc đã ra đời cách đây 1.200 năm... Tính đến hết năm 2013, đã
có 286 làng nghề được UBND TP. Hà Nội cấp bằng công nhận danh hiệu làng
nghề.
Được
mệnh danh là “vùng đất trăm nghề” với 1.350 làng nghề và làng có nghề
chiếm gần 59% tổng số làng, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống
của Hà Nội đa dạng, phong phú về chủng loại mẫu mã. Thành phố còn có
những sản phẩm mang tính riêng biệt, đặc thù như gốm sứ Bát Tràng, dát
vàng bạc quỳ Kiêu Ky, lụa Vạn Phúc, đúc đồng Ngũ Xã, tò he Xuân La… Các
sản phẩm làng nghề đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới, được các nước,
tổ chức, cá nhân đánh giá cao cả về chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật. Nghề
có nhiều làng nghề nhất phải kể đến mây tre đan với 365 làng, chiếm tới
27,04% số làng nghề, trong đó huyện Chương Mỹ 141 làng, Ứng Hòa 55 làng,
Phú Xuyên 25 làng, Thạch Thất 19 làng, Ba Vì 17 làng, Quốc Oai 15 làng,
Thanh Oai 15 làng...; chế biến lâm sản có 170 làng, chiếm 12,59%; chế
biến nông sản, thực phẩm 159 làng, chiếm 11,78%; dệt may 152 làng, chiếm
11,26%; thêu ren 138 làng, chiếm 10,22%…
Các
làng nghề đã thu hút được 739.630 người tham gia sản xuất với 175.889
hộ gia đình, 2.063 công ty cổ phần, 4.562 công ty TNHH, 1.466 doanh
nghiệp tư nhân, 164 hợp tác xã và 50 hội, hiệp hội, góp phần chuyển dịch
nhanh cơ cấu lao động ở nông thôn ngoại thành từ nông nghiệp sang làm
công nghiệp, dịch vụ. Hiện nay, nhiều làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu
của Hà Nội đã thu hút trên 70% lao động phi nông nghiệp, hạn chế số lao
động di dời từ nông thôn ra thành thị tìm việc, đem lại giá trị sản xuất
vượt trội so với nông nghiệp, tổng thu nhập từ làm nghề chiếm tới
70-80% .
Sản phẩm của làng nghề đúc đồng Lưu Xá
Bà Đào Thu Vịnh- Phó giám đốc Sở Công Thương Hà Nội
Phát
triển sản phẩm xuất khẩu của làng nghề phải gắn với bảo tồn, khôi phục
bản sắc văn hóa dân tộc và truyền thống 1000 năm Thăng Long - Hà Nội;
đồng thời gắn với phát triển du lịch, tạo thành các tour hấp dẫn, thu
hút khách du lịch trong nước và quốc tế đến với làng nghề, sử dụng sản
phẩm và dịch vụ của làng nghề.
|
Nâng giá trị, đẩy mạnh xuất khẩu
Việc
phát triển các sản phẩm xuất khẩu của làng nghề được Hà Nội đặc biệt
chú trọng. Bởi, thủ công mỹ nghệ là mặt hàng xuất khẩu mang lại kim
ngạch cao với nhiều thị trường có sức tiêu thụ lớn. Trong đó, Hoa Kỳ có
nhu cầu lớn về hàng gốm sứ nghệ thuật (sẽ chiếm khoảng 20- 25% kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề Hà Nội); thị
trường EU có nhu cầu lớn về các sản phẩm gỗ (bao gồm cả gỗ dân dụng và
gỗ mỹ nghệ); gốm sứ mỹ nghệ, mây tre đan...; Nhật Bản yêu thích sản phẩm
gỗ, gốm sứ mỹ nghệ; Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông có nhu
cầu lớn về sản phẩm gỗ dân dụng và gỗ mỹ nghệ, đá mỹ nghệ, mây tre đan.
Bên cạnh đó, các thị trường mới như Nam Mỹ, Trung Đông, Nga cũng có nhu
cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội.
Thời
gian tới, thành phố sẽ phát triển sản phẩm ngành thủ công mỹ nghệ xuất
khẩu với mục tiêu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hang đạt
0,593 tỷ USD; Đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu ngành này đạt 0,85 tỷ
USD; trong đó tập trung vào một số nhóm như: gốm sứ, mây tre đan, thêu
ren, sơn mài, khảm trai… Bên cạnh đó, ngoài các thị trường xuất khẩu
truyền thống như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc…, cần xâm nhập
vào các thị trường mới như: Bắc Mỹ, Tây Nam Á, châu Phi, châu Mỹ La
tinh…
Để
phát triển các sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn của làng nghề ở Hà Nội, vấn
đề đào tạo tay nghề và nâng cao chất lượng lao động, sử dụng hiệu quả và
tôn vinh lao động của làng nghề có ý nghĩa quan trọng. Nhà nước cần có
chính sách ưu đãi và khen thưởng thích đáng đối với các nghệ nhân, động
viên họ dạy nghề và truyền nghề cho lớp trẻ. Bên cạnh đó, khuyến khích
đổi mới thiết bị, công nghệ trên cơ sở có những cơ chế, chính sách hỗ
trợ mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ chuyển
giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, cần có
chính sách khuyến khích các làng nghề hạn chế sử dụng các loại nguyên
liệu quý hiếm, không có khả năng tái tạo; tận dụng các nguyên liệu thiên
nhiên sẵn có, dồi dào về số lượng, có thể nuôi trồng, cho sản phẩm
nhanh. Hà Nội cũng nên lập quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu cho các
nghề thủ công; nghiên cứu cải tạo và nâng cao chất lượng, áp dụng các
phương pháp tiên tiến để sơ chế và bảo quản nguyên liệu; đẩy mạnh hỗ trợ
các làng nghề xây dựng và phát triển thương hiệu, nhất là các làng nghề
truyền thống.
Theo : baocongthuong.com.vn