|
"Vua" chạm bạc Lý Dào Luồng. |
|
Từ lâu nay, cái nghề chạm bạc
hiếm có ai đạt đến độ thành thục như cụ Lý Dào Luồng, dân tộc Dao (sinh
năm 1932) ở làng Phùng, xã Thái Học, huyện Nguyên Bình (Cao Bằng). Nhưng
không ít lần cụ đã bị người đời gán cho cái danh "người gàn dở" nổi
tiếng một vùng sơn cước. Nói cụ gàn dở cũng không sai, bởi trong khi mọi
người đang thi nhau phát triển kinh tế theo hướng hiện đại hóa nhằm
thoát khỏi cuộc sống nghèo khó giữa núi rừng thì cụ lại hướng về những
thứ hoài cổ - chạm bạc. Không ai biết rằng, ngoài niềm đam mê, cụ còn có
ước muốn là giữ gìn và khôi phục cái nghề truyền thống này.
Người "gàn dở" giữa núi rừng
Căn nhà hai tầng khang trang của gia đình cụ nằm giữa
những dãy núi trùng điệp, xung quanh chỉ đá với đá, đẹp như một bức
tranh được chạm khắc về thiên nhiên và con người nơi đây. Năm nay đã hơn
tuổi bát tuần nhưng bàn tay của cụ vẫn còn rất nhanh nhạy. Cụ được mệnh
danh là "vua chạm bạc" có nét mặt hiền lành và đậm chất hoang sơ của
núi, được rất nhiều người yêu quý, mến mộ.
Ở vùng này, trang sức bằng bạc là vật làm đẹp cho các
sơn nữ người dân tộc thiểu số, là vật không thể thiếu dùng làm của hồi
môn cho con gái Dao tiền, Dao đỏ, Mông trước khi về nhà chồng. Đến ngày
cưới, cô dâu sẽ lộng lẫy với những bộ trang sức bằng bạc, như: vòng cổ,
vòng tay, xà tích, hoa tai, cúc bạc, nhẫn…
Cụ Luồng trầm ngâm kể lại: "Tôi sinh ra trong gia đình
có hoàn cảnh khó khăn, việc học hành dang dở, không đến nơi đến chốn vì
còn suốt ngày phải giúp bố mẹ lên nương làm việc nuôi các em khôn lớn.
Từ bé, tôi đã có niềm đam mê với những nét chạm khắc trên trang sức của
phụ nữ dân tộc mình mà chính cha tôi chế tác. Mỗi khi rảnh, tôi lại ra
ngồi trên mỏm đá trước cửa nhà để xem cha tôi chạm bạc, lâu lâu lại sang
nhà các cụ trong làng để so sánh cách làm cũng như trình độ của từng
người. Thấy tôi tỏ ra say mê quá nên nhiều người đã hướng dẫn tỉ mỉ các
công đoạn, đặc biệt là cha tôi dành tất cả công sức để truyền nghề".
Những ngày đầu khi bước chân vào nghề chạm bạc, cụ
Luồng gặp nhiều khó khăn vì chưa xác định được độ chín, nung chảy của
bạc, nét chạm vẫn còn thô, chưa được hài hòa. Từng loại sản phẩm lại
dùng các kỹ thuật khác nhau, vì vậy phải mất hơn một năm chăm chỉ tập
luyện, các sản phẩm trang sức do cụ chạm mới hài hòa, mềm mại theo ý
mình. Từ năm 20 tuổi, cụ Luồng bắt đầu sự nghiệp chạm bạc của mình, tài
chạm của cụ đẹp và tinh xảo đến độ các xưởng chạm bạc thời đó đều dần bị
mất khách, thậm chí một số bỏ nghề.
Cụ Luồng tâm sự: "Cách đây nửa thế kỷ, trang sức bằng
bạc là vật bất ly thân của người phụ nữ Dao tiền nên nghề chạm bạc ở
miền sơn cước còn thịnh hành và trang sức làm bằng bạc là sở thích của
các thiếu nữ dân tộc vùng cao như: Tày, Mông, Dao đỏ, Dao tiền. Để đáp
ứng nhu cầu của người dân, người ta thậm chí còn mở cửa hàng chuyên chạm
bạc mọc lên ở gần thị trấn, nơi có nhiều dân cư sinh sống".
|
Cụ Lý Dào Luồng hướng dẫn cháu trai cách chạm bạc. |
Thu nhập từ chạm bạc của cụ Luồng cũng được kha khá.
Các sản phẩm do cụ làm ra đã được tiêu thụ tại các chợ huyện: Nguyên
Bình, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thông Nông..., bán với giá một đôi vòng cổ là
11 triệu đồng, một đôi vòng tay 3 triệu đồng, một bộ xà tích 5 triệu
đồng. Theo cụ Luồng, để làm được những sản phẩm này, người thợ lành nghề
phải mất gần một tháng trời, tiền lãi hàng tháng cũng được khoảng 4-6
triệu đồng.
Hơn 60 năm làm nghề, cụ Luồng mới thấu hiểu được giá
trị tinh tế của từng sản phẩm làm ra, trân trọng và tự hào về những
trang sức mang bản sắc của dân tộc mình. Cụ cho hay: "Điều quan trọng
đối với người làm nghề là phải biết gìn giữ, cải tiến phát triển những
sản phẩm làm ra ngày càng tinh xảo, đẳng cấp hơn bằng sự khéo léo của
bàn tay, sự nhanh nhạy của đôi mắt, sự kiên trì, nhẫn nại của ý chí và
sự cảm nhận bằng tâm hồn của người thợ bạc. Số tôi may mắn được cha ông
dốc tâm truyền lại nên đến giờ vẫn gắn bó".
Mỗi sản phẩm làm ra với cụ Luồng đều là một tác phẩm
nghệ thuật thực thụ. Cụ coi đó là một thú vui, một cách trải nghiệm cuộc
sống và ngắm nhìn dòng đời xuôi ngược từng ngày trôi qua. Và hơn thế
nữa, chạm bạc cũng là nét đẹp trong văn hóa của người dân tộc thiểu số
nơi vùng cao này. Cụ bảo, chạm bạc cũng cần có năng khiếu nghệ thuật, có
trí tưởng tượng của người nghệ sĩ, khéo tay, bay bổng. Đồng thời, người
thợ bạc cũng cần phải có cơ bắp và lòng kiên trì. "Chạm những nét,
đường cong uốn lượn của bạc theo ý muốn không phải dễ, cũng phải tập kỳ
công lắm. Hơn 60 năm làm nghề tôi vẫn chưa thấy hài lòng, đến giờ vẫn
phải vừa làm vừa tập thêm", cụ Luồng cười hóm hỉnh.
Xưởng chạm bạc trên sơn cốc
Đã hơn 60 năm trôi qua, những người thợ cùng lứa với
cụ đã từng bỏ nghề đi làm việc khác hoặc nghỉ hưu, nhưng riêng cụ Luồng
với niềm đam mê vẫn kiên trì hằng ngày ngồi chạm những trang sức bằng
bạc của khách đã tìm đến nhà cụ đặt hàng. Tuy nhiên, mấy năm nay cụ dành
phần lớn thời gian đào tạo, truyền nghề cho hai thế hệ hậu duệ để nối
nghiệp mình. Hiện cụ có ba người con trai, ba cháu trai cùng hai người
con rể đang nối tiếp nghề do cụ truyền dạy và đã làm ra được các sản
phẩm chạm khắc bạc.
|
Anh Lý Văn Chòi, cháu trai của cụ Luồng đang giới thiệu sản phẩm bạc trang sức của người Dao. |
Cụ Luồng tự hào chia sẻ: "Tôi bây giờ ngày càng già
yếu, phải tranh thủ quãng đời còn lại dốc tâm truyền thụ những kỹ năng,
kinh nghiệm cho con cháu để sau này chúng nối nghiệp. Bởi vì, nghề chạm
bạc hiện nay ở vùng này đã không còn mấy ai làm nữa nên cũng có khách
đặt hàng đều đặn. Truyền nghề cho chúng nó cũng là để góp phần duy trì,
phát triển nét văn hóa truyền thống đặc trưng của dân tộc mình nói riêng
và các dân tộc thiểu số khác ở vùng này nói chung".
Hiện giờ, kinh tế gia đình cụ Lý Dào Luồng đều do các
con cháu cụ đảm nhiệm. Mặc dù ba người con trai đã tách ra ở riêng nhưng
đều cùng làm chung nghề chạm bạc. Khi gặp khó khăn tất cả lại xúm nhau
lại như một gia đình rồi tìm cách giải quyết, tìm cách phát triển và
nâng cao tay nghề. Các công đoạn như đi mua nguyên, nhiên liệu, dụng cụ
đồ nghề từ các huyện Thông Nông, Hà Quảng, Thạch An… cho đến quá trình
đun, chạm, đan bạc đều được họ phân công nhau rõ ràng. Lợi nhuận thu về
được chia đều cho nhau.
Anh Lý Kìm On (49 tuổi), người con trai thứ của "vua"
chạm bạc cho hay: "Học cái nghề này gian nan lắm chú à. Đã hơn 20 năm
làm nghề, đến giờ tôi vẫn còn nhớ những buổi đầu học những kỹ năng, thao
tác cơ bản tôi phải mất hàng tháng trời mới quen tay. Từ công đoạn nhóm
lò, kéo bễ thổi cho gió vào lò, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp, cho đến
chạm sản phẩm đều phải tuân thủ tuyệt đối mới có được sản phẩm như ý''.
Tôi chuyên về công đoạn chạm bạc. Đây là khâu công phu
nhất trong quá trình hoàn thành sản phẩm nên cha tôi hay nhắc nhở,
hướng dẫn tôi phải thành thục đến độ nhuần nhuyễn. Riêng khâu đan bạc
làm dây chuyền là do phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm".
Một đại gia đình sống tách biệt trong thung lũng đá
dốc thoai thoải, chỉ có vài ba ngôi nhà lẻ tẻ nhưng ở vùng này đồng bào
dân tộc không ai không biết đến cái tên Lý Dào Luồng. Khi chúng tôi
chuẩn bị ra về lại gặp được vợ chồng anh Lý Văn Linh đến đặt hàng làm đồ
trang sức cho cô con gái hai tháng tới lấy chồng. Anh Linh bảo: "Gần
đến mùa cưới rồi, vợ chồng phải tranh thủ đến đặt hàng trước, nếu không
sẽ không kịp vì mùa này mọi năm có rất đông khách tìm đến đại gia đình
Lý Dào Luồng đặt hàng. Chất lượng sản phẩm ở đây thì khỏi phải nghi ngờ
gì nữa, bởi hàng chục năm nay đồng bào dân tộc luôn ưng cái bụng khi các
sản phẩm đã qua "xưởng" chạm bạc Lý Dào Luồng.
Tuy tuổi đã cao nhưng cụ Lý Dào Luồng rất yêu đời, vui
vẻ bởi gia đình đã có người nối nghiệp. Điều đó cũng đồng nghĩa với nét
văn hóa dân tộc Dao xưa kia vẫn còn được con cháu giữ gìn và phát
triển. Vì vậy, ánh mắt cụ Luồng giờ đây hiện rõ niềm hi vọng, tự hào khi
nhìn vào các con cháu của mình. Theo: cstc.cand.com.vn
|