Hàng
năm, có khá nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm các
làng nghề Bắc Ninh để đánh giá hiện trạng cũng như tìm các giải pháp xử
lý. Cho đến trước năm 2010, hầu hết các công trình điều tra, nghiên cứu
về ô nhiễm đất, nước và không khí, mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe cộng
đồng tại các làng nghề mới chỉ dừng lại ở mức khái quát và sơ bộ. Vì
vậy, yêu cầu về một cơ sở dữ liệu (CSDL) tổng hợp tình trạng ô nhiễm
đất, nước và không khí tại các làng nghề nhằm cập nhật thường xuyên,
phục vụ lâu dài cho chiến lược phát triển kinh tế -xã hội và bảo vệ môi
trường là hết sức cần thiết.
Một góc làng nghề tái chế, đúc nhôm Văn Môn (Yên Phong).
Sở
Khoa học và Công Nghệ Bắc Ninh phối hợp với Viện Địa chất và Môi trường
xây dựng đề tài “Điều tra hiện trạng và xây dựng cơ sở dữ liệu về ô
nhiễm đất, nước và không khí - mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng
tại các làng nghề thuộc tỉnh Bắc Ninh; đề xuất giải pháp khắc phục”.
Đề
tài tiến hành nghiên cứu hiện trạng tại 20 làng nghề tiêu biểu thuộc 3
nhóm chính: nhóm các làng nghề tái chế phế liệu-sản xuất sắt thép-đúc
đồng, nhóm các làng nghề chế biến giấy-thực phẩm-dệt nhuộm, nhóm làng
nghề thủ công, mỹ nghệ. Từ việc điều tra, tổng hợp, phân tích, số hóa
các dữ liệu, đề tài đã đưa ra được bản đồ ô nhiễm môi trường làng nghề
Bắc Ninh với tỷ lệ 1:50.000, bản đồ ô nhiễm môi trường 20 làng nghề với
tỷ lệ 1:25.000.
Đi
kèm với đó là một bộ cơ sở dữ liệu thể hiện được các thông số cơ bản về
đặc điểm hiện trạng ô nhiễm đất, nước, không khí tại các làng nghề.
CSDL gồm hai dạng: CSDL không gian (các bản đồ) và CSDL thuộc tính (các
bảng kết quả phân tích mẫu, các dữ liệu sức khỏe); có tính mở, có thể
chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật thường xuyên. CSDL được sắp xếp theo thứ tự
của 20 làng nghề để có thể truy cập số liệu từng làng nghề.
Từ
kết quả điều tra, bộ CSDL cảnh báo mức độ nguy hiểm do ô nhiễm nước,
đất, không khí tại các làng nghề và khu vực lân cận dựa trên từng chỉ
tiêu vượt giới hạn cho phép theo Quy chuẩn Việt Nam. Trong tổng số chỉ
tiêu đã phân tích lấy mẫu tại 20 làng nghề thì nước thải công nghiệp
(nước thải ra môi trường tại các cơ sở sản xuất chế biến) có mức độ ô
nhiễm cao nhất, chiếm 54,6%; tiếp theo là nước mặt, chiếm 30,4%, nước
ngầm chiếm 12,5%, môi trường đất có mức độ ô nhiễm thấp hơn cả, chiếm
3,1%.
Cũng
xếp theo mức độ ô nhiễm các làng nghề, hai làng bún bánh Khắc Niệm và
rượu cồn Đại Lâm có mức độ ô nhiễm cao nhất với 48/450 chỉ tiêu ô nhiễm
vượt giới hạn cho phép. Đồng thời, nghiên cứu cũng đánh giá sơ bộ mức độ
ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe cộng đồng tại các làng
nghề. Chẳng hạn ở làng nghề tái chế đúc nhôm Văn Môn, số lượng người mắc
bệnh ngày càng tăng trong đó căn bệnh thường gặp là viêm đường hô hấp
cấp, đường tiêu hóa, bệnh phổi, 70% trẻ em mắc các bệnh về hô hấp. Theo
số liệu từ trạm y tế xã, mỗi năm bình quân ở Văn Môn cứ 30 người tử vong
thì 20 người tử vong vì bệnh ung thư. Trên cơ sở dẫn ra những nguyên
nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường như máy móc công nghệ lạc hậu, làng nghề nằm xen trong khu dân cư… đề tài đã đề xuất một số các biện pháp khắc phục cơ bản.
Theo
đánh giá từ Sở Khoa học Công nghệ Bắc Ninh, xây dựng bộ cơ sở dữ liệu
về ô nhiễm môi trường có ý nghĩa lớn đối với các nhà quản lý, các nhà
hoạch định chính sách và những người quan tâm tới làng nghề để đánh giá
thực trạng một cách cập nhật, thời sự. Từ đó, các cá nhân, tổ chức có
thể đưa ra giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường
và phát triển bền vững làng nghề Bắc Ninh.
Theo: baobacninh