Công trình
thủy điện, thủy nông Ayun Hạ hoàn thành năm 1994, nằm trên địa bàn 2
huyện Chư Sê và Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Với diện tích mặt nước 37 km2,
công trình vĩ đại, tuyệt đẹp này không chỉ khiến Gia Lai trở thành vựa
lúa của Tây Nguyên, nó còn giúp hàng ngàn nông dân mưu sinh, thoát nghèo
bằng nghề đánh bắt cá.
Sung túc nhờ hồ
Những ngày lang thang quanh khu vực hồ
Ayun Hạ, một lần đứng trên đỉnh đèo Chư Sê phóng tầm mắt nhìn xuống hồ,
tôi mới thực sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh.
Toàn cảnh bức tranh nền là một màu xanh trù phú. Hai bên hồ là hai dãy
núi sừng sững ôm lấy dòng sông Ayun hiền hòa. Phía dưới là nhà máy thủy
điện Ayun Hạ và dòng nước trong xanh chảy theo kênh chính dài ngút tầm
mắt, uốn lượn theo những cánh đồng chạy dài xuống thị trấn Ayun Pa tạo
nên bức tranh đồng quê tự nhiên, hài hòa. Những mái nhà tranh cất tạm
của ngư dân nằm lúp xúp bên bờ hồ. Dưới lòng hồ, những chiếc thuyền của
ngư dân lững thững trôi… khung cảnh thật êm đềm.
Một góc hồ Ayun Hạ
Hỏi thăm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm
được nhà của già làng của làng T’lâm, xã Ayun. Năm nay đã gần 80 tuổi,
già làng K’puih từng trải qua biết bao thăng trầm của quê hương, từng có
những tháng năm dài tham gia nuôi giấu bộ đội trong cả 2 thời kỳ chống
Pháp, Mỹ. Đêm đêm, già làng cùng thanh niên trong làng chèo thuyền độc
mộc chở bộ đội vượt sông, mai phục dưới chân đèo Tung Kê tiêu diệt kẻ
thù.
Già làng khoe: “Từ lúc có hồ đến nay,
bà con hết nghèo đói, sống khỏe. Giờ nhiều người thích xuống nước bắt cá
hơn lên rừng rồi”. Theo già làng K’puih, chỉ tính riêng xã Ayun đã
khoảng hơn 300 hộ làm nghề đánh bắt cá trên hồ. Trẻ con trong làng khi
vừa biết đi cũng là lúc phải tập bơi, lên 10 tuổi đã biết câu cá, thậm
chí có đứa giăng lưới thành thục, biết canh con nước, ngọn gió để đặt
câu, buông lưới. Quả thật, hồ Ayun Hạ đã cho bà con cuộc sống sung túc.
Xuồng độc mộc và những căn nhà tạm của ngư dân xóm chài
Tôi gặp ngư dân Đ’Breng, ở làng T’Lâm,
xã Ayun, giữa lúc anh vừa đi thả lưới về. Tôi ngạc nhiên thấy quần áo
anh sũng nước nhưng chẳng thấy cá đâu. Anh cười bảo: “Bây giờ mình chỉ
thả lưới xuống thôi, về ngủ 1 giấc rồi sáng dậy sớm đi mang cá về bán
thôi”. Tôi hỏi: “Thả lưới không có người trông người khác xuống lấy mất
thì sao?”. “Không đâu, ai cũng có mà”, anh thật thà đáp.
Già làng K’puih cũng nói với tôi rằng
từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra mất trộm lưới. Đ’Breng năm nay gần 50
tuổi và anh chẳng nhớ đã gắn bó với dòng sông từ lúc nào. “Ngày xưa theo
cha đi bắt cá dưới sông, cũng có cá. Bây giờ có hồ rồi, nhiều cá lắm,
không phải ngược lên thượng nguồn nữa”, anh nói tiếp. “Thả lưới một đêm
được bao nhiêu cá?”, tôi hỏi Đ’Breng. Anh đáp: “Nhiều lắm, con nào cũng
to, mang nặng vai. Ở đây nhiều người thả lưới giỏi lắm”. Đ’Breng bảo,
cách đánh cá của những ngư phủ trên sông Ayun rất khác người. Buổi chiều
sau khi đi rẫy về họ chỉ ra sông buông lưới xuống để sáng mai ra thu
lưới và mang cá về bán.
Giăng lưới
Đối diện các làng thuộc xã Ayun, huyện
Chư Sê là các làng ngu phủ Kim Piêng, Plei Bông, Plei Trơk, Plei Hek…
của xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện đang có cuộc sống sung túc nhờ hồ
Ayun Hạ.
Buổi chiều, hoàng hôn buông xuống thật
nhanh. Những ngôi nhà sàn bắt đầu sáng đèn. Tôi ngỏ ý muốn ở lại một
đêm, già làng K’puih gật đầu, cười bảo: “Rừng đủ thức ăn, đủ chỗ ngủ
mà”.
Kiêng kị khi buông lưới
Buổi sáng, khi mặt trời chưa ló rạng
tôi đã giật mình choàng tỉnh bởi tiếng khua mái chèo, tiếng gọi í ới
bằng tiếng bản địa. Già làng K’puih đang ngồi thư thái nhìn ra khoảng
sân đầy heo gà, miệng phì phèo tẩu thuốc. Tối qua, tôi đã được xúc miệng
bằng rượu cần, có vị thuốc, được thưởng thức món cá hồ Auyn Hạ nướng,
nấu măng chua, và sau đó, ngủ một giấc thật say trong tiếng ru của cây
rừng…
Bên ngoài, bờ hồ tấp nập, mọi người
đang hối hả xuống xuồng, đi gỡ lưới. Tôi nhanh chân theo bước theo
Đ’Breng. Biết tôi có ý định theo ra hồ, anh bảo: “Hồ sâu lắm, anh có
biết bơi không?”, thấy tôi gật đầu, anh tiếp: “Hồ cũng có thần linh cai
quản, phải khấn trước nếu không thần không cho xuống, không cho cá đâu”.
Nói rồi anh chắp tay, ngửa mặt rì rầm một lát rồi nói: “Xong rồi”.
Chúng tôi bước xuống thuyền. Những
chiếc thuyền khác cũng bắt đầu ra sông. Đ’Breng bảo, không chỉ khấn, xin
phép thần trước khi ra hồ, còn phải hứa không được làm điều xằng bậy
như phóng uế, bắt cá nhỏ, gian lận… Lưới của Đ’Breng thả không xa bờ,
nhưng khi anh vừa kéo lên, đã thấy mấy con cá mè khá to giãy giụa.
Suốt thời gian gỡ cá, Đ’Breng không
nói một lời. Mẻ cá từ nắm lưới dài chừng 30 m Đ’Breng thu chừng 40 con
cá mè, cá lóc, cá trôi. Ước cũng hơn chục ký cá. “Mình bán bao nhiêu
tiền một ký?”, tôi hỏi anh. “Có khi 20 ngàn, có khi cao hơn. Tùy hôm,
khi nào họ bảo hôm nay cá rẻ thì mua thấp, hôm nào đắt thì họ trả cao”.
Mỗi ngày anh Đ’Breng trở về bến với khoảng trên dưới 20 ký cá các loại
Hồ Ayun Hạ có rất nhiều cá. Cá tự
nhiên vốn đã nhiều nay được Cty Thuỷ sản miền Trung thả giống chăn nuôi
nên cuộc sống của hàng trăm hộ dân sống quanh lòng hồ Ayun Hạ càng sung
túc hơn xưa. “Ở đây nhiều cá to lắm. Vì nó sống lâu nên rất khôn. Lưới
không bắt được nó đâu. Có khi nó được thần nước bảo vệ rồi cũng nên”,
Đ’Breng nói.
Hằng ngày vào buổi trưa, sau khi
thuyền đánh bắt cập bến, những xe tải đông lạnh lại chở cá nước ngọt đi
khắp mọi miền đất nước. Cá ở đây nhiều vô kể và đa dạng về chủng loại
như: trôi, chép, mè, lăng, trắm cỏ… và đặc biệt là cá thát lát, một
trong những đặc sản nức tiếng của Gia Lai.
“Hồ thuỷ lợi Ayun
Hạ vừa tưới mát cho cây trồng vừa mang lại nguồn thức ăn dồi dào cho bà
con đồng bào Bahnar các làng King Pêng, Plei Bông, Plei Trơk và Plei
Hek… trong xã. Do đã được bộ đội chỉ cách thả lưới, câu, đánh bắt cá từ
thời kháng chiến nên từ ngày có hồ Ayun Hạ đến nay, cuộc sống của hàng
trăm hộ dân đồng bào Bahnar quanh lòng hồ Ayun Hạ ngày càng no đủ, sung
túc hơn xưa…”, ông Rơmah Ngoan, Chủ tịch UBND xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện.
|
“Hữu xạ tự nhiên hương”, hồ Ayun Hạ và
cả những vùng đất xung quanh nó đã trở thành mảnh “đất lành”, thu hút
nhiều người đến mưu sinh. Anh Đ’Đôk, một ngư dân mới chuyển đến làng
Plei Trơk, xã Ayun va cũng sống nhờ nguồn cá trên hồ nói: Lúc trước, anh
sống ở xã H’Bông, huyện Chư Sê nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn vì khô
hạn, đất đai cằn cỗi.
Nhưng từ lúc chuyển cả gia đình về
đây, lòng hồ Ayun Hạ đã giúp anh và cả gia đình thoát khỏi cảnh đói
nghèo. “Tôi biết ơn hồ, biết ơn thần linh đã chỉ dường cho tôi gặp hồ,
biết ơn nhà nước đã làm hồ nước này cho bà con”.
Ngày xưa, ở các buôn làng Tây Nguyên,
ai cũng biết câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống cá
chuồn gửi lên”. Nhưng bây giờ, câu ca ấy đã đi vào dĩ vãng, chẳng còn ai
nhắc đến nữa. Hồ Ayun Hạ đã mang rất nhiều cá đến cho họ rồi, nên họ
chỉ gửi sản vật của rừng về xuôi thôi chứ không cần dưới đó gửi cá lên
nữa.
Theo: Nông Nghiệp Việt Nam