Để
có thể giải bài toán thừa vẫn nhập hiện nay thì Nhà nước phải là cơ quan
đứng ra liên kết, quy hoạch các vùng sản xuất nguyên liệu nông sản chất
lượng. Loại bỏ những vùng sản xuất kém chất lượng, năng suất thấp...
Lách để nhập
Hàng loạt các mặt hàng trong nước có sức
sản xuất cao, có khả năng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước như
muối, đường, trứng, thép, xi măng… song các mặt hàng này vẫn được nhập
khẩu khá lớn. Việc nhập khẩu các mặt hàng này vô hình trung tạo sức ép
đáng kể đối với các nhà sản xuất trong nước và tạo thêm sức ép nhập siêu
cho cả nền kinh tế.
Thép sản xuất trong nước còn đang tồn kho nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn nhập khẩu
Đơn cử như mặt hàng thép. Trong khi
lượng thép sản xuất trong nước còn đang tồn kho lên tới hơn 300 nghìn
tấn, thì nhiều doanh nghiệp vẫn ồ ạt nhập khẩu thép. Theo số liệu của
Tổng cục Hải quan, đến hết 15/3/2014 đã có 1.770.244 tấn thép được nhập
khẩu. Nếu như nhập các loại thép mà trong nước chưa sản xuất được thì
chẳng có gì đáng nói.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu các loại thép
trong nước đang dư thừa, đặc biệt là thép giá rẻ gây nhiều tác động đến
sản xuất thép trong nước. Nếu nhìn trên bảng tỷ trọng thép dây sẽ thấy
mặt hàng này (trong nước sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu) có sự sụt giảm
đáng kể từ 25%/tổng sản lượng thép sản xuất trong nước trước kia thì nay
chỉ còn chiếm dưới 20%.
Việc sụt giảm tỷ trọng thép này cũng
đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng sản xuất,
vừa gây lãng phí do dây chuyền thiết bị không hoạt động đúng công suất,
vừa ảnh hưởng đến công ăn việc làm và thu nhập của hàng vạn lao động
ngành thép.
Theo các chuyên gia ngành thép thì sở dĩ
thép trong nước phải “nhường sân” cho thép nhập là bởi hiện thép Trung
Quốc nhập vào rẻ hơn do chính sách hỗ trợ xuất khẩu của quốc gia này.
Người bán hàng không nói đây là hàng Trung Quốc trong khi đó người dân
thấy rẻ thì mua, rất khó kiểm soát.
Đây là vấn đề rất khó vì họ né từ thép
xây dựng sang hợp kim, thực chất là trốn thuế từ 5% xuống 0%. Việc né
này là do quy định nguyên tố Bo từ 8 phần nghìn là thép hợp kim, nếu
thay đổi phải thay cả quy định này. Và đây là việc rất khó để thay đổi
ngay trong một thời gian, vì còn liên quan đến quy chuẩn thế giới.
Nhập theo cam kết
Bên cạnh câu chuyện các doanh nghiệp,
sản phẩm lách luật để nhập, thì việc Việt Nam gia nhập WTO với các cam
kết thương mại tự do cũng khiến chúng ta phải nhập khẩu nhiều mặt hàng
nông sản khác như đường, trứng, muối… vốn là những mặt hàng thế mạnh của
Việt Nam. Và các doanh nghiệp được cấp hạn mức thì… cứ nhập mà không
cần biết đến những khó khăn của người nông dân, nhà sản xuất trong nước
khi phải cạnh tranh với các nông sản cùng loại trên thị trường.
Câu chuyện về đường và hàng ngàn ha mía
đường phải phá bỏ hay câu chuyện về người nông dân khóc trên những cánh
đồng muối trắng sẽ vẫn còn tiếp diễn nếu không sớm có sự can thiệp của
các cơ quan có thẩm quyền.
Còn ở phía các doanh nghiệp nhập khẩu họ
vẫn chỉ có một điệp khúc “cũ rích” để lý giải cho việc nhập khẩu những
sản phẩm này là: Các sản phẩm trong nước làm ra phần lớn chưa đạt tiêu
chuẩn để có thể sản xuất công nghiệp. Giá các sản phẩm trong nước cao
hơn và không ổn định bằng các sản phẩm nhập khẩu, trong khi đó các nhà
sản xuất trong nước cần có giá đầu vào ổn định trong khoảng thời gian
dài để sản xuất…
Theo các chuyên gia, để có thể giải bài
toán thừa vẫn nhập hiện nay thì Nhà nước phải là cơ quan đứng ra liên
kết, quy hoạch các vùng sản xuất nguyên liệu nông sản chất lượng. Loại
bỏ những vùng sản xuất kém chất lượng, năng suất thấp. Tiên phong trong
việc nghiên cứu đưa các loại giống mới, các công nghệ sản xuất nông sản
liên tiếp vào thực tiễn sản xuất.
Tăng hơn nữa hàm lượng khoa học vào nông
nghiệp, đưa các đề án, dự án cải tạo nông nghiệp xuống tận ruộng đồng
để nâng cao chất lượng nông sản theo các quy chuẩn thế giới. Bên cạnh
đó, Nhà nước cũng là đầu mối để có những hỗ trợ thiết thực cho các doanh
nghiệp nghiên cứu nâng cao chất lượng các sản phẩm nông sản có thể đáp
ứng được các nhu cầu sản xuất trong nước.
Song song với đó, những sản phẩm nào
trong nước sản xuất được, đảm bảo chất lượng thì kiên quyết không nhập
hoặc cho nhập nhưng áp dụng hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước.
Thực tế cho thấy, chỉ khi nào có những
giải pháp toàn diện, đồng bộ mới có thể giúp người dân, doanh nghiệp yên
tâm sản xuất trên những cánh đồng của họ. Và chỉ khi gắn liền được lợi
ích của người dân, doanh nghiệp với nhau thì câu chuyện thừa vẫn cứ nhập
mới có thể có hồi kết.
Theo: thoibaonganhang.vn