Những
năm qua, nền nông nghiệp nước ta đã từng bước phát triển, bước đầu được
công nghiệp hóa, phát huy được vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế trong bối
cảnh khó khăn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đang giảm
dần và bộc lộ những yếu kém của một nền nông nghiệp dựa trên kinh tế hộ
nhỏ lẻ, thiếu liên kết, năng suất và chất lượng thấp trong khi cạnh
tranh giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Theo số liệu của Bộ NN và
PTNT, tăng trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần, tốc độ tăng GDP
nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 đạt 3,83%/năm, giảm xuống 3,3%/năm
trong giai đoạn 2006 - 2010, năm 2013, tốc độ này tiếp tục giảm còn
2,8%. Trong khi rất cần vốn để phát triển thì đầu tư phát triển của toàn
xã hội vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn rất thấp, giảm từ 8,5% năm
2000 xuống còn 6,2% năm 2010. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
khu vực này hiện chỉ chiếm 1 - 2% tổng vốn FDI. Cùng với đó, cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm; quan hệ sản xuất trong
nông nghiệp, nông thôn chậm đổi mới; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được
bảo đảm; ô nhiễm môi trường tăng…
Nguồn: danviet.vn
|
Riêng trong ngành trồng trọt, hạn chế lớn nhất là vẫn chưa theo quy
hoạch vùng, trên những mảnh ruộng manh mún rất khó để áp dụng khoa học
kỹ thuật. Đặc biệt, khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch lại càng kém.
Nước ta xuất khẩu các loại nông sản như lúa gạo, cà phê, cao su, hạt
tiêu… đứng đầu thế giới về sản lượng nhưng chủ yếu vẫn chỉ là xuất khẩu
thô, sơ chế rồi bán, giá trị gia tăng thấp. Vì vậy, giá trị các mặt hàng
nông sản của Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn mặt bằng chung của các mặt
hàng cùng loại trên thị trường quốc tế. Thực tế này cũng có một phần
nguyên nhân từ thương hiệu, kênh phân phối, tiếp thị chưa chuyên nghiệp.Theo
các chuyên gia, mặc dù còn nhiều khó khăn như vậy, nhưng nền nông
nghiệp hoàn toàn có thể phát triển mạnh mẽ. Phó viện trưởng Viện nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương Võ Trí Thành nhận định, nông nghiệp trồng
trọt của Việt Nam có lợi thế cạnh tranh tốt với nhiều mặt hàng như lúa
gạo, cà phê, cao su… Trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới đang
tập trung vào vấn đề xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực thì
Việt Nam càng cần phải phát huy thế mạnh này. Những lợi thế về nông
nghiệp trồng trọt cho phép Việt Nam có thể trở thành hình mẫu trong phát
triển nông nghiệp, mang lại lợi ích cho nông dân, đất nước và góp phần
vào sự ấm no của nhân loại.
Để đến
cái đích này, còn rất nhiều việc phải làm. Ts Võ Trí Thành nhấn mạnh,
điều kiện cần thiết và quan trọng nhất là phải có đột phá về thể chế để
nông nghiệp phát triển. Trong lịch sử phát triển của nước ta, đó là đột
phá về cơ chế Khoán 10, thực hiện nền sản xuất nông nghiệp dựa vào hộ
nông dân với quyền tự do sản xuất trên ruộng đất của mình. Đột phá này
chính là chìa khóa để thay đổi lịch sử của nền sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam từ nước đói ăn, nhập khẩu lương thực thành nước dư thừa và xuất
khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển hiện nay,
vai trò trung tâm của kinh tế hộ gia đình không thể đưa nền nông nghiệp
phát triển bởi thiếu lợi thế về quy mô; không gắn kết tốt với chuỗi giá
trị từ khâu giống, sản xuất, chế biến, bảo quản và phân phối ra thị
trường; hộ gia đình cũng không phải là tổ chức có thể hấp thụ hiệu quả
được vốn, kỹ thuật.
Ts Võ Trí
Thành cho rằng, đột phá ở thể chế trong phát triển nông nghiệp có nhiều
nội dung. Trong đó cần phải có đột phá về thể chế trong tổ chức mô hình,
phương thức sản xuất quy mô lớn ở những vùng có điều kiện, bên cạnh vai
trò của hộ gia đình. Đột phá này sẽ khắc phục tình trạng manh mún trong
sản xuất nông nghiệp, khắc phục các bất cập mà sản xuất nông nghiệp quy
mô hộ gia đình không giải quyết được, đồng thời hướng đến một nền sản
xuất hàng hóa nông nghiệp chuyên nghiệp, bền vững. Bên cạnh đó, cần phải
có phương thức tăng vị thế của người nông dân trong mặc cả hàng
hóa trên thị trường nhằm phân phối hợp lý thu nhập; tìm phương thức cụ
thể gắn hỗ trợ trực tiếp của nhà nước ở một mức độ nhất định nhằm điều
hòa thu nhập bấp bênh của người nông dân. Cũng có thể nghiên cứu tìm
cách phối hợp tạo ra hàng hóa công cộng trong nước và khu vực như cung
cấp sản phẩm cho các chương trình dự trữ quốc gia của nước ta và các
nước khác…
Tháng 6/2013, Chính phủ đã
phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao chất lượng, giá
trị gia tăng và phát triển bền vững nhằm phát triển nông nghiệp nông
thôn bền vững cả về tự nhiên và xã hội, bảo đảm môi trường trong sạch,
góp phần xóa đói giảm nghèo, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát
thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp; phấn đấu xây dựng một nền
nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, chất lượng, hướng tới trở thành một
cường quốc xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, đề án
này chưa đề cập sâu sắc và thỏa đáng yếu tố cải cách thể chế nhằm giải
quyết vấn đề liên kết, tổ chức mô hình, phương thức sản xuất nông nghiệp
theo quy mô lớn.
Trong bài viết
nhân dịp tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh:
“... cần thấy rõ rằng, quá trình tích tụ ruộng đất sẽ diễn ra mạnh
mẽ hơn, cơ giới hóa nông nghiệp tăng nhanh, sản xuất hàng hoá nông
nghiệp phát triển ngày càng cao với quy mô lớn, có phương thức sản xuất
hiện đại, vùng sản xuất lớn, cho nên cần coi trọng phát hiện, nhân rộng
các mô hình tốt về hợp tác, liên kết trong đầu tư, sản xuất nông, lâm
nghiệp và khai thác hải sản trên biển. Đó là xu thế phát triển khách
quan trong thời gian tới, vấn đề đặt ra là chúng ta tác động định hướng
hiện thực hóa xu thế đó thế nào cho vững chắc để sớm đạt được hiệu quả
cao nhất”. Rõ ràng, cần sớm nghiên cứu, đưa ra các chính sách đột
phá trong cải cách thể chế để nông nghiệp nông thôn có thể phát triển
bền vững, không chỉ là trụ đỡ của nền kinh tế, mà hướng đến trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, trở thành thương hiệu của quốc gia.
Theo: daibieunhandan