Tháng Tám mùa Thu, hành hương về đất tổ
Mỗi dịp Thu về, người người truyền
nhau câu hát Xứ Thanh "Hăm mốt Lê Lai, Hăm hai Lê Lợi", đông đảo người
dân khắp nơi nô nức hành hương về đất tổ Lam Kinh thắp hương tri ân vị
anh hùng dân tộc đã khai sinh ra một triều đại thịnh trị vào loại bậc
nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Truyền rằng, vì cảm lòng xả
thân cứu chúa của Lê Lai và những công trạng to lớn của Lê Thái Tổ, nên
cứ vào dịp này, ông trời lại tuôn mưa, "khóc" cho những bậc tiền nhân đã
hiến cả cuộc đời cho nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Lam Kinh là nơi
bắt đầu của thời kì Hậu Lê gắn liền với bản anh hùng ca đánh đuổi giặc
Minh, thu giang sơn về một mối.
Vua Lê Lợi sinh ngày 6/8/1385, tằng tổ
của vua húy là Hối, người phủ Thanh Hóa. Nhân một lần đi qua Lam Sơn,
được một nhà sư già mách cho táng linh xa vào mảnh đất hình quốc ấn. Thế
đất xoáy ốc, trước mặt có núi Chiêu làm hương án, tả có núi Rồng chầu
về, hữu có núi Hồ chầu lại, tay phải hồ Thủy, tay trái Long Sơn liên kết
như chuỗi hạt châu phát ngôi Thiên tử. Thấy chim muông quần tụ, thế đất
vượng là nơi có thể tụ họp đông người, Lê Lợi liền dời đến Lam Sơn, sau
ba năm thì thành sản nghiệp lớn. Việc mở đất gây nghiệp, dựng nền bắt
đầu từ đó. Nhà Hồ không thuận lòng dân, giặc Minh đem quân xâm lược,
bách tính điêu linh khôn xiết. Lê Lợi chiêu hiền đãi sĩ, thu nạp nhân
tài, nghĩa sĩ bốn phương nghe tiếng tụ về Lam Sơn. Năm 1416, ông cùng 18
tướng sĩ hừng hực ý chí đứng trước đống lửa ngùn ngụt mở Hội thề Lũng
Nhai dựng cờ khởi nghĩa, quyết tâm đánh đuổi giặc Minh. Ông dùng kế sách
"lấy ít địch nhiều", "lấy yếu đánh mạnh" thu được nhiều thắng lợi,
tiếng tăm dần vang bốn cõi.
Sau 10 năm “nằm gai, nếm mật" sự
nghiệp bình Ngô thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua lấy niên hiệu là Thuận
Thiên sáng lập triều Hậu Lê, mở ra một thời kì đất nước thịnh trị. Dưới
sự lãnh đạo sáng suốt, thi hành chính sự mau lẹ của Lê Thái Tổ, với sự
tham mưu của các "khai quốc công thần" như Nguyễn Trãi, Lê Thận, Lê Văn
An, Lê Sát, Đinh Lễ, Đinh Liệt, Nguyễn Nhữ Lãm… nhanh chóng hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế xã hội, củng cố bộ máy
pháp quyền như: Định luật, chế ra lễ nhạc, mở khoa thi, lập phủ, huyện,
thu thập sách vở, dựng học đường. Nhờ cải cách, nền kinh tế phục hồi
nhanh chóng, đời sống người dân no ấm, thái bình. Khi vua Lê Thái Tổ
băng hà vào ngày 22/8 năm Quý Sửu (1433), thi hài được đưa về an táng
tại đất Lam Sơn. Sáu vị vua và hai hoàng hậu của triều Hậu Lê sau khi
mất cũng lần lượt đưa về an táng tại đây, Lam Sơn trở thành sơn lăng của
nhà Hậu Lê có tên gọi Lam Kinh. Lễ hội hằng năm được nhân dân chọn tổ
chức vào ngày giỗ của ông.
|
Lễ tế Tổ ở Lam Kinh, Thanh Hóa trong ngày hội. | Khu
điện Lam Kinh vẫn cổ kính, thâm nghiêm giữa bộn bề, hối hả của cuộc
sống, dẫu những gì sót lại chỉ còn là nền móng thành quách, cung điện,
đôi rồng đá rêu phong… Thành điện Lam Kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu (gọi
là Du Sơn) mặt Nam nhìn ra sông - có núi Chúa làm tiền án, bên tả là
rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi Hàm Rồng chắn phía Tây. Khu
Hoàng thành, Cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được bố trí theo trục Nam
- Bắc trên khoảng đồi gò có hình dáng chữ Vương. Bốn mặt xây thành
chiều dài 314 m, bề ngang 254 m, tường thành phía Bắc hình cánh cung bán
kính 164 m, thành dày 1 m. Với diện tích khoảng 200 ha, Điện cổ Lam
Kinh (Tây Kinh) trở thành kinh thành lớn thứ hai sau Đông Kinh ở Thăng
Long thời ấy. Lam Kinh, còn những phế tích như Ngọ môn, Sân rồng, Chính
điện, khu Thái miếu… Trước Lăng vua Lê Thái Tổ là hai hàng tượng người
và tượng các con vật có niên đại cùng năm mai táng vua Lê Thái Tổ (1433)
tạc bằng đá theo phong cách nghệ thuật đặc trưng khác hẳn các tượng
khác. Tại Lam Kinh còn có Vĩnh Lăng, một công trình 600 năm "trơ gan
cùng tuế nguyệt". Bia làm bằng đá trầm tích nguyên khối, đặt trên lưng
rùa, tượng trưng cho sự trường tồn vĩnh cửu. Bên cạnh nhiều hoa văn là
cứ liệu quý giá để nghiên cứu về nghệ thuật trang trí thời Lê Sơ. Bia
Vĩnh Lăng còn mang giá trị lịch sử, mô tả cô đọng toàn bộ sự nghiệp của
vua Lê Thái Tổ do Nguyễn Trãi, người đã được Unessco công nhận là Danh
nhân văn hóa thế giới biên soạn.
Độc đáo lễ hội Lam Kinh
Về Lam Kinh, khách thập phương được ôn
lại chuyện cũ, tích xưa, tỏ lòng thành kính, tri ân với những người con
của lịch sử, một thời đã làm nên chiến tích vẻ vang; được thưởng lãm
các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, các điệu múa, trò chơi dân
gian: Múa Xéc bùa, múa đèn Đông Anh, múa rồng uyển chuyển bay lượn, hát
trò Xuân Phả… mang đậm bản sắc Xứ Thanh.
Trò Xuân Phả là một trong ba di sản
văn hóa phi vật thể đặc sắc còn lưu giữ được tương đối nguyên vẹn ở
Thanh Hóa tồn tại cùng dân ca Đông Anh, hò sông Mã. Không chỉ diễn ra
trong ngày hội làng và trong lễ hội Lam Kinh, trò Xuân Phả còn được chọn
đại diện cho văn hóa xứ Thanh công diễn tại các sự kiện văn hóa lớn của
tỉnh và cả nước: Chào thiên niên kỉ mới 2000, Phét-ti-van Huế 2004, Đại
lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Múa Xuân Phả thể hiện khát vọng vươn
lên của con người, là bức tranh muôn màu về cuộc sống, để lại nhiều ấn
tượng trong lòng công chúng. Những hành vi trong sinh hoạt của cư dân
Việt thuở trước như đi săn, đánh võ, chèo thuyền, gõ mạn thuyền, xoay
vòng... lồng vào các động tác múa, khái quát cuộc sống của cha ông xa
xưa, tôn thêm sắc thái văn hóa lúa nước, vẻ duyên dáng, tinh tế, kín đáo
nhưng cũng rất mạnh mẽ của người Việt. Trò Xuân Phả vui, trữ tình,
nhiều đạo cụ được sử dụng nhưng mỗi đạo cụ có một hình tượng riêng.
Thời gian trôi đi, Lam Kinh vẫn sừng
sững tồn tại, như phần hồn cốt của xứ Thanh, như dấu ấn tâm linh của quá
trình lịch sử lâu đời, trở thành chốn đi về của con dân thành tâm với
cõi linh thiêng, hướng về cội nguồn, tiên tổ.
Theo: Người Cao Tuổi
|