Người
Dao ở nhiều vùng ăn Tết từ tháng chạp, tổ chức nhảy múa suốt đêm để thể
hiện lòng biết ơn với tổ tiên và cầu mong mùa màng tươi tốt.
Tết
nhảy hay "Nhiang chằm Ðao" là nghi lễ cúng Bàn Vương thủy tổ của dân
tộc Dao ở nhiều vùng trong cả nước như Phú Thọ, Hòa Bình, Lào Cai, Thanh
Hóa hay Ba Vì (Hà Nội). Theo truyền thuyết, trong chuyến di cư vượt
biển sang Việt Nam tìm đường sống của con cháu 12 họ Dao, sau nhiều
tháng lênh đênh trên biển mà chẳng tới bờ, bất ngờ đoàn thuyền gặp bão,
tính mạng bị đe dọa.
Trong
cơn nguy cấp, các họ Dao khấn cầu xin Bàn Vương và tổ tiên giúp đỡ vượt
qua cơn hoạn nạn, vào đến đất liền an toàn hứa sẽ làm lễ tạ ơn. Lời cầu
linh ứng, từ đó về sau, các họ người Dao, kể cả Dao đỏ, Dao tiền hay
Dao quần chẹt đều tổ chức Tết nhảy để tạ ơn tổ tiên.
Không
giống Tết của người Kinh, tùy vào điều kiện kinh tế của từng gia đình
mà mỗi nhà người Dao mới làm Tết nhảy. Thường vài năm mới tổ chức một
lần, nhưng không lâu quá 12 năm, vì như thế là vong ân bội nghĩa với tổ
tiên, trời đất. Thời gian tổ chức ở mỗi nơi khác nhau, khi thì rằm hoặc
25 tháng chạp, khi chỉ trước Tết Nguyên đán một hôm.
Tết
nhảy chỉ làm ở “Nhà cái” (con trưởng, trưởng họ) và là việc của mỗi gia
đình, nhưng được cả bản chung tay góp sức từ nấu cỗ đến các nghi thức
lễ lạt, nên coi như Tết chung của cả vùng. Người Dao không câu nệ chuyện
ăn uống trong Tết nhảy. Lễ cúng chỉ giản đơn gồm thịt và rượu để dâng
lên tổ tiên, sau đó được mang ra thiết đãi bà con.
Không
cà kê chén rượu, cũng không lai rai khách sáo, bữa cơm Tết nhanh chóng
kết thúc để nhường chỗ cho phần quan trọng và độc đáo nhất của ngày Tết
là nhảy múa tri ân. Khi tiếng trống, tiếng kèn, chuông đồng vang lên rộn
rã là lúc bước chân của những người đàn ông Dao nhún nhảy say sưa theo
điệu nhạc. Trước tiên là các điệu múa đưa đường, bắc cầu để đón thần
linh, tổ tiên về ăn Tết. Điệu chào bố mẹ, tổ tiên thì nhảy múa một chân,
đầu cúi, ngón tay trỏ giơ cao. Điệu mời tiên nương giáng trần được mô
phỏng theo điệu cò bay, hai tay dang ngang vẫy vẫy nhịp nhàng...
Vào
chính lễ, khởi đầu là điệu múa “tam nguyên an ham” do thầy múa và
khoảng 10 thanh niên nam giới biểu diễn để mời thần thánh các binh tướng
về dự. Tiếp đến điệu múa dao hay còn gọi là múa “ra binh vào tướng” với
những động tác nhảy, quay, nhún, bật tung người rất nhanh, mạnh, dứt
khoát, lướt đi trong tiếng trống, thanh la, não bạt trầm hùng.
Rất
nhiều điệu múa truyền thống theo quan niệm của từng vùng như múa phát
nương, múa chạy cờ, múa kiếm, múa chuông, múa văn, múa võ… Đặc sắc nhất
vẫn là múa bắt rùa. Rùa là một trong hai loài động vật được người Dao
tôn thờ và kiêng không bao giờ ăn thịt, nên điệu múa bắt rùa dù nhịp
nhảy và lời hát có khác nhau đôi chút giữa các vùng nhưng vẫn mang nhiều
ý nghĩa đối với người Dao.
Trước
đèn thờ cúng Bàn Vương, thầy múa đi trước, theo sau là một tốp thanh
niên độ vài chục người ăn mặc đẹp, gọn gàng nối tiếp nhau đảo quanh đèn
cúng, diễn tả các động tác tìm rùa, bắt rùa, trói rùa khiêng về nhà để
dâng cúng Bàn Vương và các vị thần thánh tổ tiên.
Có
nơi nam giới đứng thành vòng tròn, hai người một quay mặt vào nhau để
múa bắt rùa. Mỗi người cầm một đồ vật nào đó có thể tạo ra âm thanh theo
mỗi điệu nhảy. Khi chân phải bước lên trước, chân trái khụy gối thấp
hơn thì đồng thời hai tay cầm nhạc cụ gõ vào nhau.
Nhìn
chung động tác của các điệu múa nhảy khá đơn giản, mang tính tượng hình
cao nhưng diễn ra liên tục trong 3 ngày Tết nên cần người khỏe mạnh
tham gia. Ai mệt thì ra, người khác vào thay thế, người ra ăn uống rượu
thịt no say rồi lại vào nhảy tiếp.
Cứ
thế mỗi người nhảy múa hàng trăm lượt và động tác như uyển chuyển hơn
trong men say rượu Tết, làm cho người xem có cảm giác mình đang được
sống trong một thế giới giao hòa giữa quá khứ và hiện tại. Kết thúc Tết
nhảy, tiếng tù và sẽ vang lên và tất cả lại cùng ăn thịt uống rượu, chúc
gia chủ một năm tốt lành. Theo: vnexpress
|