Người dân
và chính phủ của các nước có nền tảng văn hóa cổ truyền vững chãi vẫn
thường hãnh diện về trang phục truyền thống đặc trưng của dân tộc mình. Áo dài trong lễ tiếp tân triều Nguyễn - Ảnh tư liệu Đám cưới người Việt bên Mỹ với black-tie - Ảnh: Trịnh Bách Tổng thống Mỹ Barack Obama (bìa phải) trong lễ phục black-tie - Ảnh: wupr.org
Trong các dịp lễ hay tiếp tân quan trọng, những loại trang phục đó thường được mặc định là quốc phục của họ.
1. Điển hình là trong kỳ họp thượng đỉnh APEC 2009 ở Hàn
Quốc, các nguyên thủ quốc gia đã vừa thích thú vừa trân trọng khi khoác
lên người những bộ durumagi, tức là trang phục hanbok nam giới truyền
thống của quốc gia chủ nhà. Báo chí Hàn Quốc xem đây là điểm son lớn cho
quốc thể của họ.
Trong khi đó thì giới ngoại giao, văn hóa của nhiều
quốc gia cho đến nay vẫn không hiểu người Trung Quốc, nước chủ nhà của
APEC 2001, đã cho nguyên thủ của họ mặc trang phục gì. Ban tổ chức ở
Thượng Hải giải thích rằng cái áo jacket họ thiết kế năm đó “có phong
cách” Trung Hoa, dù không có tên gọi.
Sau nhiều phen bàn cãi, Bộ VH-TT&DL nay vẫn đang
trong hành trình tập hợp ý kiến, đặc biệt của các chuyên gia, nhà văn
hóa để trong tháng 5 xây dựng được đề án lễ phục nhà nước mà Chính phủ
đã giao. |
Cả thế giới đều biết đến trang phục truyền thống được
mặc định là quốc phục của các nước, thí dụ như cái váy kilt của nam giới
xứ Scotland, áo kimono montsuki của giới mày râu Nhật Bản, áo choàng
besht của các nước Ả Rập, áo kebaya của Indonesia, hay áo kaftan của
Afghanistan...
Bên Tây Âu và Mỹ không có quốc phục, nhưng họ rất kỹ
lưỡng về lễ phục. Trong các quốc yến, quốc lễ, đại lễ họ mặc lễ phục nơ
trắng (white-tie), tức loại trang phục người Việt gọi là áo đuôi tôm.
Trong các dịp riêng tư nhưng trọng thể, như đám cưới, tang lễ hoặc các
tiệc quan trọng của gia đình, cơ quan, người ta mặc trang phục nơ đen
(black-tie), còn gọi là tuxedo.
Mỗi loại trang phục kể trên khi mặc đều phải tuân thủ
các lề lối và phụ kiện nghiêm ngặt, từ mũ, cổ áo, đai bụng, khuy áo,
tất, giày... Còn ở văn phòng, ở các buổi hội họp hằng ngày hoặc trong
các dịp ăn uống gia đình, bè bạn thoải mái thì nam giới mặc loại trang
phục làm việc (business suit) mà ta hay gọi là Âu phục hay bộ đồ vét
(veston).
Dù sao thì Âu phục tự cách gọi đã mang hàm ý là trang
phục của người châu Âu rồi. Vì tiện dụng và ảnh hưởng phương Tây cho nên
nó được chấp nhận ở nơi công sở và trong các buổi họp gần như khắp nơi
trên thế giới. Nhưng khi người Âu Mỹ đã mặc định chức năng phổ biến cho
loại trang phục này của họ rồi thì có lẽ không một quốc gia nào nên,
hoặc có quyền, nhận veston là quốc phục hay lễ phục của riêng nước mình.
2. Thế quốc phục
nam giới nước ta như thế nào? Từ những năm đầu thập niên 1960, báo chí
trên thế giới khi nhắc đến quốc phục các nước thì áo dài bao giờ cũng
được lấy làm tiêu biểu cho Việt Nam. Thậm chí thuật ngữ “áo dài” từ khi
đó đã trở thành một danh từ trong các bách khoa từ điển trên thế giới.
Trong quyển sách Relation de la Nouvelle Mission des
Peres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine, xuất bản
tại Lille năm 1631, giáo sĩ Cristoforo Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của
người Việt Đàng Trong đầu thế kỷ 17. Ông cho biết phần lớn đàn ông Việt
thời này, nhất là giới sĩ tử, đều mặc một cái áo dài bằng vải lụa hay
lương màu đen phủ ra ngoài các áo khác. Và “...đàn ông cũng như đàn bà
đều để tóc dài và vấn khăn”.
Năm 1819, khi thuyền trưởng Mỹ John White đến thăm Sài
Gòn, cách ăn mặc ở đây vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng
từ hơn hai thế kỷ trước đó. Ông White cũng cho biết đàn ông, đàn bà Sài
Gòn khi ấy ăn mặc giống nhau, với vài lớp áo dài khác màu. Tuy nhiên,
giống như bây giờ, theo thuyền trưởng White thì lối ăn mặc đỏm dáng kể
trên chỉ dành cho tầng lớp phong lưu, thời thượng. Còn phục trang của
đại đa số dân chúng là áo dài sẫm màu.
Áo dài ở nước ta hầu như không thay đổi mấy từ mấy thế
kỷ nay, ít nhất là từ triều Nguyễn. Áo dài nam giới truyền thống rất
trang trọng, nghiêm cẩn và nam tính. Trong khi cổ áo dài phụ nữ có thể
khi cao khi thấp thì áo dài đàn ông bao giờ cũng có cổ khép kín với bề
cao độ 3,5cm. Gấu áo dài đến ngay phần dưới đầu gối. Áo xẻ eo thấp. Vạt
áo rộng trên dưới 70cm, cắt võng.
Tay áo dài nam giới không bao giờ được cắt kiểu chéo
vai raglan mà phải cắt theo lối nối tay. Cách cắt vai raglan để nâng
ngực phụ nữ chỉ mới xuất hiện thời gần cuối thập niên 1960, khi phong
trào Hippy du nhập vào miền Nam Việt Nam. Áo dài của một hoàng đế trong
cung cũng được may giống y như áo dài của một anh khóa ngoài làng. Có
khác chăng là chất lượng và màu sắc vải.
Tiếc rằng vì thiếu hiểu biết, hay vì sở nguyện cá nhân,
mà ngày nay áo dài nam giới nhiều khi đã bị đồng hóa với áo dài phụ nữ
hiện đại để được may một cách thõng thượt, ẻo lả.
Trong những dịp lễ trọng thì đàn ông nước ta khoác thêm
ra ngoài áo dài một cái áo lễ may rộng tay, gọi là áo bào, áo cổn ở
trong triều; hay áo tấc, áo rộng, áo thụng ngoài hương, phố. Các áo lễ
này có cổ chéo (giao lĩnh), cổ đứng hay cổ tròn (bàn lĩnh) tùy theo
trường hợp. Áo lễ có cùng chiều dài với áo dài mặc bên trong, tay áo
được may rất rộng và dài, khi buông thõng thì dài bằng gấu.
Áo lễ chỉ được khoác phủ ra ngoài áo dài khi hành lễ.
Còn trước và sau lễ, cũng như trong tất cả mọi dịp trang trọng khác,
người Việt bao giờ cũng chỉ mặc áo dài. Trong mọi trường hợp, áo dài
trắng, đen hoặc hai lớp trắng đen luôn phổ biến.
Áo dài và lễ phục bàn lĩnh cổ đứng tay rộng rất đặc
trưng Việt Nam. Tự cổ chí kim không nước nào trên thế giới có hai loại
áo này ngoài nước mình.
3. Ngày xưa phần
lớn áo dài, áo rộng đều được may kép, tức là may với lớp lót đính liền
vào lớp áo ngoài. Dưới thời Lê Trung Hưng, các quan trong triều mặc thêm
một áo lót (ngắn hay dài tùy cấp bậc của người mặc), phần nhiều màu
trắng, bên trong áo lễ.
Phong tục mặc áo lót màu trắng bên trong áo dài được
kéo dài cho đến gần đây cũng tương tự cách mặc áo sơmi trắng bên trong
áo veston của phương Tây và cũng như trong hầu hết lễ phục của các quốc
gia Âu, Á. Ở những tình huống bình thường, như khi tiếp khách đến thăm
bất ngờ, người Việt hàng phố thường khoác vội cái áo dài ra ngoài bất cứ
áo nào đang mặc trên người.
Đi cùng với áo dài ở Việt Nam ngày xưa là khăn vấn.
Khăn của văn ban vấn theo kiểu chữ nhân và khăn của võ ban vấn kiểu chữ
nhất, bao giờ cũng màu đen. Sau phong trào xóa bỏ búi tóc năm 1927, đàn
ông Việt đội lên đầu tóc ngắn của mình một loại khăn đã được vấn sẵn gọi
là khăn đóng hay khăn xếp.
Từ những năm giữa thập kỷ 1930, giới trí thức trẻ và
các công tử thành thị trong đời sống thường nhật không đội khăn xếp nữa.
Thay vào đấy họ đội các loại mũ phương Tây. Chỉ trong các dịp lễ trọng
đại hay đám cưới thì người ta mới đội khăn đóng. Cũng từ thời gian khăn
vấn bị loại bỏ, các loại quần lụa, lĩnh không còn được nam giới nước ta
mặc cùng với áo dài nữa, thay vào đấy người ta mặc quần Âu may bằng vải
trắng các loại và đi giày Tây, giày Hạ (Hạ châu) hay còn được gọi là
giày Gia Định hoặc dép da.
Cho đến bây giờ, bô lão ở các làng xã vẫn còn giữ được
phong tục truyền thống ở nước ta là mặc áo dài vào những dịp trọng đại.
Họ cũng khoác thêm áo thụng, giờ đây thường là loại cổ chéo gọi là giao
lĩnh, trong lúc tế lễ. Nhưng không ai có thể chối cãi được rằng áo dài
chính là bộ trang phục quốc hồn quốc túy, kiêu hãnh, đa năng và thông
dụng của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay.
Theo: Tuổi Trẻ