Tinh hoa làng mỹ nghệ Sơn Đồng
Lịch sử phát triển làng nghề
Từ ngã tư thị trấn Trạm Trôi đi vào khoảng gần 2km là du khách đã đặt
chân tới làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng, nơi được coi là "thế giới" của
những đồ thờ tượng phật sơn đồng. Nhìn khung cảnh của xã Sơn Đồng hôm nay sầm
uất chẳng khác gì thị trấn ở phố huyện, với không khí nhộn nhịp, vội vã,
các nhà hàng ăn uống, dịch vụ kinh doanh, biển hiệu công ty san sát hai
bên đường. Xã Sơn Đồng có giao thông khá thuận lợi, đường vào xã có
nhiều cây xanh che bóng mát, hiện toàn xã có 11 xóm, 2.000 hộ và trên
8.000 khẩu, trong đó có tới 80% số hộ làm nghề tạc tượng, đồ thờ. Trong
các xóm làm nghề thì có lẽ nổi bật nhất là khu vực "Xóm ngã tư". Trước
mặt du khách là những biển hiệu sơn son thếp vàng gắn với tên tuổi của
các nghệ nhân có tiếng trong làng, với những sản phẩm ăn sâu trong thế
giới tâm linh của người dân như những pho A-di-đà, Di lặc, thần Tài,
hoành phi câu đối…
![Tinh hoa làng mỹ nghệ Sơn Đồng](http://www.mynghesondong.vn/images/village/img_28072010_01.jpg)
Làng nghề Sơn Đồng đã hình thành và phát triển được hơn 1.000 năm, kể
từ khi nền văn hoá Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam. Trong thời kỳ
phong kiến, Làng nghề có hàng trăm người thợ được phong Tước bá hộ kỹ
nghệ (nay gọi là nghệ nhân). Các dấu ấn vật thể 1.000 năm Thăng Long -
Hà Nội đều có đôi bàn tay tài hoa của người nghệ nhân Sơn Đồng tham gia
như Văn miếu Quốc Tử Giám, Khuê Văn Các, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, chùa
Một Cột...
Làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng từng bị mai một vào những năm kháng chiến
chống Mỹ và thời kỳ bao cấp, nhưng sau đó đã được các nghệ nhân Nguyễn
Chí Dậu và Nguyễn Đức Cường khôi phục vào năm 1983. Cụ Nguyễn Chí Dậu,
nghệ nhân từ thời thuộc Pháp đã quyết định khôi phục nghề truyền thống
bằng việc đứng ra tổ chức lớp học nghề chạm khắc gỗ và sơn mài, cốt là
để truyền nghề cho con cháu tượng hộ pháp. Hơn 30 học viên ngày đó, bây giờ đã trở
thành những người thợ giỏi, chủ cơ sở sản xuất lớn trong làng và đang
tiếp tục truyền nghề cho thế hệ trẻ. Đến nay, nghề truyền thống của làng
chủ yếu mang tính gia truyền bằng miệng, chứ không có sách vở nào, bố
truyền cho con, con truyền cho cháu, cứ thế nối tiếp thế hệ trước cho
thế hệ sau. Trải qua những thăng trầm để tồn tại một làng nghề nghìn năm
tuổi, ngày nay, người dân Sơn Đồng đã lấy ngày 6-2 âm lịch hàng năm là
ngày hội làng, con cháu ở khắp nơi về sum họp, tế lễ thành hoàng làng.
Hiện nay, cả xã có hơn 4.000 nghìn lao động làm nghề thủ công mỹ nghệ
thường xuyên, trong đó có đến hơn một nửa là thợ giỏi và nhiều thợ giỏi
được tôn vinh, phong danh hiệu nghệ nhân. Sản phẩm của Làng nghề mỹ
nghệ Sơn Đồng chiếm khoảng trên 50% thị phần toàn quốc về tượng và đồ
thờ sơn son thếp vàng, thếp bạc phủ màu hoàng kim, phục vụ mảng đời sống
văn hoá tâm linh, tín ngưỡng của người dân 18 vi la han. Điều đáng nói là khách hàng
cần đặt làm bất cứ pho tượng thờ nào thì người thợ nơi đây đều làm được
ngay mà không cần mẫu sinh kề (mẫu có sẵn). Các pho tượng đều trở nên
có hồn qua đôi bàn tay khéo léo của người thợ. Để làm được điều đó, đòi
hỏi người thợ phải có kinh nghiệm, hiểu được các điển tích, tính cách,
chức vụ, vị trí của từng pho tượng trong tâm thức để rồi thổi hồn vào
các tác phẩm.
Quy trình chế tác
Về quy trình chế tác, ngoài công thức chung kế thừa của cha ông thì
mỗi nghệ nhân ở Sơn Đồng cũng có những thủ pháp, những bí truyền với
cách phân, quân tỷ lệ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn một nghệ
nhân khi đục pho tượng Phật bà Quan Âm ngồi thường là đục bốn diện
(khuôn mặt tính từ chân tóc tới cằm gọi là "mặt diện". Trong giải phẫu
tạo hình hiện đại gọi là "một đầu"). Nhưng cũng có khi Phật ngồi chỉ có
ba diện rưỡi, hoặc bốn diện rưỡi. Cũng có khi làm một pho tượng đứng
phải “dựng” tới bảy diện ông hoàng bơ. Điểm chung giữa các nghệ nhân khi làm tượng là
đều lấy diện (bằng một đầu) làm chuẩn để tính tỷ lệ. Tỷ lệ tượng ngồi
bằng bốn diện và tượng đứng bằng bảy diện. Ngoài ra, về chiều cao thân
tượng thì phải tuân thủ theo một số công thức sau: rộng vai tượng: từ 2
đến 4 diện; dài tay: 3 diện; bề dày thân từ 1,5 đến 2 diện. Công thức đó
có xê dịch tùy theo tượng béo hay gầy, tượng nam hay nữ (tượng béo có
độ dày thân tượng cao, tượng nam vai rộng hơn tượng nữ...).
Một người thợ cho biết, đục tượng bao giờ cũng bắt đầu từ việc chọn
gỗ. Nguyên liệu để làm tượng Phật là gỗ mít, đây là chất liệu duy nhất
được phát hiện và tin dùng từ lâu. Gỗ mít có đặc tính dẻo, mềm, thớ dặm,
nhờ đó tránh được những sơ suất trong khi đục. Gỗ mít còn có độ bền
cao, ít nứt, dễ gọt. Người dân Sơn Đồng phải mua nguồn gỗ mít từ các
tỉnh như Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An... Gỗ chở về loại bỏ
hết phần giác, chỉ dùng lõi để đục. Sau đó, người thợ dùng dây đo thể
tích để cắt phần gỗ: chiều cao, chiều ngang và bề dày (kích thước của
một khối hình), rồi đến cắt "dưỡng" - hình mẫu cắt theo “công tua” hai
chiều: chiều nghiêng (nhìn mặt bên tượng) và chiều đứng (nhìn chính
diện). Phần gia công đầu tiên là đầu và mặt tượng văn thù bồ tát. Đục phác thảo những
khối mũ (nếu có) rồi trán, mũi, môi, tai... Trên khuôn mặt tượng, người
thợ cũng phân chia từng mảng, diện như khoảng cách giữa hai con mắt, từ
chân tóc tới chân mày, chiều dài sống mũi, bề rộng cánh mũi, khoảng cách
giữa môi trên và môi dưới, từ môi dưới tới cằm, độ dày của môi... Đặc
biệt là tai Phật, phải tính đặt cân đối hợp lý trong khoảng cách từ chân
tóc (2 bên đầu) tới cằm. Sau khi đục phác lấy dáng chung một lượt suốt
từ diện tới bệ, đến khâu đục chi tiết, người thợ cũng thể hiện dần từng
bộ phận. Khâu này được coi là quan trọng nhất trong cả quá trình hoàn
thành pho tượng. Cuối cùng là khâu gọt, nạo, rồi đánh giấy ráp cho nhẵn.
Trong khi gọt, người thợ dùng loại đục dẹt, mỏng để tách các chi tiết,
sao cho các mảng các khối (chân tay và các ngón) khỏi "dính" vào nhau,
nhất là phải thể hiện kỹ các đường lượn, mảng miếng. Gọt nạo là khâu
hoàn chỉnh phần gỗ trước khi chuyển sang phần sơn.
Kỹ thuật sơn son thếp vàng tượng cũng kỳ công như nghệ thuật làm
vóc sơn mài. Đầu tiên "hom" tượng bằng sơn trộn đất phù sa (tỷ lệ sao
cho không được non sơn, cũng không được già quá) rồi “bó” bằng sơn sống
rồi sơn “thí”. Sau mỗi công đoạn đều phải mài tượng bằng đá và nước ngai thờ. Sơn
lên rồi lại mài đi, rồi lại sơn lên..., cứ thế, bao giờ thấy bề mặt
tượng phẳng nhẵn và mọng lên thì dùng một lớp sơn (gọi là sơn cầm thếp)
phủ lên. Để sơn cầm thếp se (sờ tay thấy còn hơi dính) thì dán bạc hoặc
dán vàng (bạc, vàng quỳ) tùy theo yêu cầu của khách. Quỳ là một loại bột
từ vàng, bạc miết trên một tờ giấy mỏng (giấy quỳ). Người ta đem những
lá vàng, lá bạc (loại cao tuổi) dát mỏng cắt thành những mảnh vuông, xếp
vào giữa những tờ giấy, rồi dùng búa nện đều cho đến khi vàng tan thành
bột. Theo ông Nguyễn Chí Quảng - ở xóm ngã tư, thì để làm xong pho
tượng to phải mất 40 công, còn tượng nhỏ khoảng 5 - 10 công, nguyên liệu
để làm tượng, đồ thờ, ngoài gỗ mít còn có gỗ dổi, vàng tâm. Làm tượng
là khó nhất, người thợ phải thổi được hồn vào pho tượng, nhìn có dáng,
khách trông thấy là nhận ra ngay là ông tượng nào…
Tiếng thơm vang xa
Thành quả mà những người thợ Sơn Đồng thu được sau bao ngày đêm miệt
mài bên xưởng gỗ là tiếng thơm không chỉ vang danh khắp mọi miền tổ
quốc, mà còn vang xa tới nhiều quốc gia trên thế giới, nhắc đến tượng
Phật là người ta nghĩ ngay đến Sơn Đồng. Với đôi bàn tay tài hoa, những
người thợ làng Sơn Đồng đã cho ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi
độ tinh xảo cao như bức tượng Phật bà nghìn tay, nghìn mắt, tượng ông
Thiện, ông Ác, tượng La Hán, kiệu bát cống... Đi đến đâu trong cả nước,
du khách đều bắt gặp các tượng thờ do người thợ Sơn Đồng chế tác. Một
nghệ nhân cao niên tự hào là người đã tạc được hàng trăm pho tượng ông hoàng mười có
giá trị cung cấp cho các chùa Quán Sứ, Liên Phái, Trấn Quốc, Hương Ký
(Hà Nội), chùa Hương, chùa Trăm Gian (Hà Tây cũ) và nhiều chùa khác trên
mọi miền tổ quốc. Cũng có những người thợ trẻ đã mạnh dạn làm các bức
tượng cao từ 3,5m - 4,5m, đây là một kỷ lục mà trước đó chưa ai làm.
Tiếp nối truyền thống cha ông, song các thợ trẻ cũng biết sáng tạo, đổi
mới cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Những lớp thợ trẻ giờ đây
không chỉ kế thừa những nét tài hoa về tay nghề, mà còn rất năng động
trong cơ chế thị trường.
Về Sơn Đồng hôm nay, du khách sẽ được tận mắt chứng kiến quy trình
chế tác tượng và được hòa mình trong bản “bản nhạc” làng nghề với tiếng
lách cách của người thợ đục tượng, tiếng máy cưa xoèn xoẹt âm vang khắp
ngõ xóm. Quả thực, khi được chứng kiến thì mới thấy hết nỗi vất vả, khó
nhọc của người thợ, khi mỗi tác phẩm nghệ thuật hoàn thành đều ẩn chứa
trong đó mồ hôi, trí tuệ của những người thợ chân đất đức thánh trần. Nhiều người dân
Sơn Đồng hôm nay phải thốt lên rằng, chính cái nghề nghìn năm tuổi của
cha ông đã giúp họ làm giàu, giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao
động, trong khi đồng đất đang bị thu hẹp bởi tốc độ đô thị hóa cao. Bà
con vẫn thầm cảm ơn các nghệ nhân đã góp phần khôi phục làng nghề, có
những hộ làm nghề từ nhiều đời nay đã viết tiếp trang sử làng nghề Sơn
Đồng. Có những người thợ năm xưa nay đã trở thành những ông chủ xưởng
lớn của làng, với 3 xưởng sản xuất, hoạt động quanh năm lúc nào cũng có
từ 40 - 50 thợ làm thuê. Đến nay, cả xã có hơn 5 hộ thành lập công ty để
xúc tiến thương mại, ký kết với khách hàng trong và ngoài nước. Trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều người thợ Sơn Đồng còn làm cả
tượng chân dung, tượng mỹ nghệ để xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của các đối
tác nước ngoài ông hoàng bảy. Không ít Việt kiều sau khi đến tham quan làng nghề Sơn
Đồng đã đặt hàng, thậm chí còn mời những người thợ ra nước ngoài để xây
chùa, đình phục vụ cộng đồng người Việt ở đó. Giờ đây, giá trị của những
bức tượng được nâng lên hơn trước rất nhiều, có một số bức tượng khách
hàng đặt mua tới hơn 100 triệu đồng.
Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề Sơn Đồng những năm gần đây đồng
nghĩa với nhu cầu về mặt bằng sản xuất phải được mở rộng hơn nữa. Không
ít hộ muốn mở rộng sản xuất nhưng do không có đất nên đành "lực bất tòng
tâm". Vì vậy, để duy trì và phát triển làng nghề Sơn Đồng có tính bền
vững, chính quyền các cấp cần quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện hơn nữa
cho các hộ dân mở rộng sản xuất, góp phần làm giàu cho quê hương, đất
nước, tạo việc làm ổn định cho người lao động trong xã. Người dân Sơn
Đồng mong muốn những chính sách khuyến khích, hướng dẫn phát triển làng
nghề đi vào cuộc sống của làng nghề cần hiệu quả hơn nữa. Các văn bản
hướng dẫn cần cụ thể, chi tiết hơn, để người lao động làm nghề tiếp cận
được các chính sách hỗ trợ và phát triển làng nghề tam thế phật. Những hội nghị của
Nhà nước, các cấp bàn về các vấn đề phát triển làng nghề nên có thêm
thành phần là người làm nghề tham gia, để họ nói lên được tiếng nói
thiết thực của người làm nghề, góp phần xây dựng, hoạch định chính sách
về việc phát triển làng nghề được sát hơn.
(Theo: http://www.aip.gov.vn/)