Gian nan hành trình “lột xác”
Dọc theo tỉnh lộ 203 về
hướng Tây Bắc cách thành phố Cao Bằng khoảng 30km, làng Hòa Mục ở xã Nà
Sác, huyện Hà Quảng hiện ra với những mái nhà bê tông mọc san sát. Làng
Hòa Mục hiện có 66 hộ dân và 228 nhân khẩu, chủ yếu là người dân tộc
Tày sinh sống
Nghề trồng dâu, nuôi
tằm ở đây đã có từ lâu đời. Đây là ngôi làng nổi tiếng, được mệnh danh
là “thủ phủ dâu tằm” miền sơn cước, nhiều hộ gia đình nhanh chóng đổi
đời, khá giả. Nhìn bề ngoài, không ai có thể hiểu được rằng để thay đổi
như hôm nay, làng Hòa Mục đã trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, thăng
trầm để giữ nghề và phát triển.
Theo các cụ cao niên ở
làng Hòa Mục cho biết, từ thuở xưa khi tổ tiên mang nghề về làng cho đến
những năm 1990, nghề trồng dâu nuôi tằm đã trải qua bao thăng trầm,
gian nan. Ban đầu không có ai quan tâm, mặn mà với nghề này bởi vì xung
quanh chưa có hộ nào làm, không dám mạo hiểm phá bỏ ngô, lúa để làm một
nghề mới lạ ẩn chứa nhiều rủi ro. Cho đến khi thấy người tiên phong nuôi
tằm có thu nhập khá hơn so với trồng cây ngô, lúa, số hộ dân trồng dâu,
nuôi tằm mới tăng dần.
Tuy nhiên, cái nghề này
lúc thăng, lúc trầm, lúc phất to, khi trắng tay công cốc nên bà con
cũng theo tâm lý mà năm này trồng dâu, vài năm sau lại phá bỏ. Trong
hoàn cảnh đó, vẫn có một số hộ dân trong làng kiên định duy trì nghề
truyền thống của cha ông.
Thời gian đầu khi bước
vào làm nghề “ăn cơm đứng”, mỗi cây dâu từ lúc trồng đến lúc cho thu hái
lá phải mất ít nhất một năm chăm sóc. Trồng dâu đã vất vả, chăn tằm còn
cực nhọc gấp nhiều lần. Thời kỳ tăm ăn rỗi là lúc bà con bận rộn nhất.
Mỗi nong mấy trăm con tằm ăn lá dâu rào rào khiến lá dâu mọc không kịp,
người chăn tằm cũng không đứng yên được một chỗ. Đến khi con tằm chín,
người chăn tằm lại chuyển tằm lên né để tằm làm tổ và nhả tơ.
Theo anh Đàm Văn Thông,
Trưởng xóm Hòa Mục cho biết: “Từ những năm 1990 về trước đó, giá cả thị
trường luôn bấp bênh, công việc lại vất vả nên nhiều người không trụ
được với nghề, làm cả năm chỉ được 10-20 triệu đồng. Do vậy, các hộ dân
chọn cách đi làm thuê ở xa, hoặc làm dệt may, trồng trọt ngô, lúa… chứ
làm tơ, chăn tằm chỉ đủ ăn mà lại vất vả, nhiều rủi ro. Một số vẫn bám
nghề truyền thống nhưng chỉ làm cho có, không muốn đầu tư nhiều về công
sức, tiền bạc. Nghề trồng dâu nuôi tằm lúc “phất to”, lúc chìm nghỉm, ế
ẩm. Nguyên nhân không hẳn do người dân không mặn mà, đầu tư nghiêm túc
mà còn do nhu cầu thị trường cũng như giá cả nữa…”.
|
Bà Hoàng Thị Yêm (66 tuổi) đang cho tằm ăn lá dâu.
|
Lột xác nhờ nghề “ăn cơm đứng”
Một trong những hộ phất
lên nhờ nghề nuôi tằm truyền thống là gia đình bà Hoàng Thị Yêm (66
tuổi) ở làng Hòa Mục — hộ điển hình về nuôi tằm với quy mô lớn và có
truyền thống với nghề từ lâu năm. Gia đình bà Yêm đã mạnh dạn vay vốn
đầu tư nhiều nong tằm, trồng nhiều dâu trong ruộng nhằm tận dụng tối đa
diện tích đất, nâng cao thu nhập từ việc nuôi tằm.
Theo bà Yêm, sau khi mở
rộng quy mô trồng dâu, số lượng nong tằm thì tính ra trung bình 1ha cây
dâu sẽ thu về khoảng 90 triệu đồng khi đem về chăn tằm lấy kén. Khi cây
dâu già, rụng lá thì có thể đốn gốc để chồi dâu non mọc tiếp.
Dâu là loại cây dễ
trồng, thích hợp với đất đai, khí hậu ở miền núi, một lần trồng có thể
thu hoạch 15-20 năm. Người nuôi tằm muốn có nguồn nguyên liệu ổn định
thì phải đầu tư thời gian, công sức chăm sóc cẩn thận để không bị sâu
hại lá và sinh trưởng tốt. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên để có những
lứa tằm khỏe mạnh, mau chóng nhả tơ và đem lại thu nhập cao cho người
dân.
Đa dạng hơn gia đình bà
Yêm, chị Đàm Thị Tuyền được biết đến là người trồng dâu, nuôi tằm có
quy mô nhất làng Hòa Mục, đồng thời cũng là địa điểm cung cấp giống tằm
cho bà con trong tỉnh.
Chị Tuyền chia sẻ:
“Nghề nuôi tằm này tiền thu về cũng nhanh mà mất trắng cũng nhanh, nhưng
nếu loại bỏ các yếu tố rủi ro để đem so với các cây trồng khác mà hiện
nay địa phương đang trồng thì trồng dâu nuôi tằm là hiệu quả hơn cả. Mỗi
lứa tằm chỉ nuôi hơn một tháng là có thể bán kén ra ngoài thị trường,
tổng cộng một năm nhà tôi nuôi được 7 lứa tằm. Mỗi cân kén bán ra khoảng
120 nghìn đồng, trung bình mỗi lứa tằm được hơn 100kg, tổng thu nhập
của gia đình tôi được gần 100 triệu đồng/năm. Không những thế, gia đình
tôi còn kiếm thêm thu nhập nhờ cung cấp, bán con giống cho các hộ nuôi
tằm ở các huyện Hòa An, Bảo Lâm, Bảo Lạc, Nguyên Bình…”.
|
Vườn dâu nhà chị Tuyền, hộ dân nuôi tằm lớn nhất làng Hòa Mục.
|
Anh Đàm Văn Thông,
Trưởng xóm Hòa Mục cho biết: “Nuôi tằm cần có nhiều kinh nghiệm, kỹ
thuật bới nó vốn là giống khó chăm, lá dâu không sạch rất rễ làm tằm mắc
bệnh, thậm chí bị chết. Vào thời kỳ tằm ăn rỗi, mỗi vòng tằm phải mất 2
nhân công thường xuyên hái lá cho tằm ăn ngày đêm mới có thể nhả kén
nhiều và chất lượng tốt. Tơ và kén tằm ở Hòa Mục xuất chủ yếu ở khu vực
trong tỉnh và sang Trung Quốc”.
“Mô hình kinh tế trồng
dâu nuôi tằm đã trở thành hướng đi bền vững cho nhiều gia đình như bà
Yêm, chị Tuyền và các các hộ dân khác ở Hòa Mục. Nhờ nghề trồng dâu,
nuôi tằm bà con đã sắm được đầy đủ nội thất tiện nghi, xây được nhà mới
khang trang, đường làng lối xóm được bê tông hóa hoàn toàn, con cái được
đầu tư học hành đến nơi đến chốn… Ngoài trồng dâu, nuôi tằm, bà con ở
Hòa Mục còn trồng cây thuốc lá để nâng cao thu nhập”. – anh Thông chia
sẻ.
Những năm gần đây,
nhiều hộ dân đã thoát nghèo bền vững, từng bước vươn lên phát triển kinh
tế, làm giàu ở quê hương. Tất cả đều nhờ họ kiên trì và không ngừng
thay đổi, tìm hướng đi mới cho nghề nuôi tằm của tổ tiên. Nhiều hộ trong
làng hiện đang trăn trở về việc thành lập được một tổ hợp tác để liên
kết giữa các hộ dân trong việc mở rộng diện tích trồng dâu, mở rộng quy
mô nuôi tằm; từ đó vừa có thể giúp nhau phát triển kinh tế bền vững, vừa
tránh tình trạng bị tư thương thu mua kén tằm ép giá.
Mặc dù phát triển
trồng dâu, nuôi tằm đem lại hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên từ năm 2013
đến nay, diện tích trồng dâu, nuôi tằm ở Hà Quảng lại giảm dần theo thời
gian. Cụ thể, năm 2013 toàn huyện trồng được 26,6ha, giảm 3ha so với
năm 2012, sản lượng đạt 7.626 kén tằm, nuôi tằm đạt trên 1 tỷ đồng, giá
trị canh tác bình quân đạt 37,8 triệu đồng/ha. Năm 2014, diện tích cây
dâu toàn huyện giảm xuống chỉ còn 17,7ha, chỉ còn 92 hộ tham gia trồng
dâu, nuôi tằm. Tổng giá trị thu nhập đạt 1 tỷ 096 triệu đồng, giá trị
đất canh tác bình quân đạt 61,9 triệu đồng/ha. Năm 2015 huyện chỉ còn 88
hộ tham gia trồng 15,97ha dâu, sản lượng kén thu được 3.968kg. Giá kén
giảm còn 138 nghìn đồng/kg, tổng thu nhập đạt trên 547 triệu đồng, giá
trị đất canh tác bình quân đạt 34,5 triệu đồng/ha. Để cây dâu, con tằm
thực sự phát triển bền vững đòi hỏi phải xây dựng vùng sản xuất tập
trung theo hướng chuyên canh hóa.
Theo baophapluat.vn