Vọng Nguyệt (Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh) là ngôi làng nhỏ bên
tả ngạn con sông Cầu hiền hòa chở che từ ngàn năm, nơi khởi sinh ra tơ
tằm lâu đời bậc nhất xứ Kinh Bắc vang danh khắp vùng.
Suốt chiều dài nghìn năm lịch sử rạng
danh với nghề se tơ dệt lụa, Vọng Nguyệt đã đi vào ký ức và hoài niệm
của bao nhiêu thế hệ yêu mến tơ tằm, gấm vóc. Con người Vọng Nguyệt tao
nhã hiền hòa, sớm khuya cần mẫn bên nong dâu, kén tằm để se lên những
tấm lụa làm đẹp cho đời đã đi vào sử sách.
Người Vọng Nguyệt vẫn kể cho nhau nghe
lịch sử về làng, rằng ngày xưa mảnh đất này có tên là Ngột Nhì. Có
người đàn ông họ Chu đến khẩn hoang lập làng, gây dựng cơ nghiệp đầu
tiên nên người dân coi đây là Tổ làng. Sau khi người họ Chu này qua đời,
được an táng ở đồng Đống Tranh, nhìn xuống ao hình bán nguyệt từ đó dân
làng đặt tên là Vọng Nguyệt. Vọng Nguyệt nghĩa là trông trăng, là đẹp
mơ mộng và thanh bình. Đến nay người dân vẫn giữ tên Vọng Nguyệt để luôn
nhớ về quá khứ và nhớ đến công lao của Tổ làng.
Vọng Nguyệt từng vang danh khắp vùng
với nghề trồng dâu, nuôi tằm. Xuôi đồng bằng châu thổ hay ngược về xứ
Tây Bắc xa xôi, đâu đâu cũng biết đến Vọng Nguyệt với câu ca:
"Dù ai buôn Sở bán Tần/ Không bằng Vọng Nguyệt chuyên cần ươm tơ"
Nghề nông tang Vọng Nguyệt đã có khoảng
1000 năm nay. Không ai nhớ tổ nghề của làng là ai, chỉ có câu chuyện lưu
truyền trong dân gian được các cụ vẫn truyền đời kể cho cháu con nghe
rằng mảnh đất này xưa tương truyền rằng được triều đình giao cho nhiệm
vụ ươm tơ để dệt vải cho nhà vua và hậu cung. Khi ấy các dòng họ lớn:
Nguyễn Hữu, Chu, Ngô Quý, Ngô Xuân... đã cùng nhau sống chan hoà, trai
thì cầy cuốc làm ruộng, gái đảm đang trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt vải.
Người nơi khác thường nói rằng Vọng
Nguyệt được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vị trí đẹp, với những cánh
đồng đỏ phù sa cho nương dâu bốn mùa tươi tốt. Còn người Vọng Nguyệt như
có duyên với nghề nông tang, khi nuôi tằm thì cho nhiều kén, mỗi nong
kén lại kéo được rất nhiều tơ. Cùng với sự cần mẫn, khéo léo và yêu nghề
người Vọng Nguyệt đã không phụ lòng triều đình khi tạo ra những sợi tơ
tằm óng ả, suôn mềm, bền, dai và chắc chắn dệt nên những tấm hoàng bào,
quốc phục và gấm vóc, lụa là sang trọng quyền quý được chốn cung đình ưa
chuộng. Thời kỳ hoàng kim với nghề này đã mang đến sự phồn thịnh cho
người dân trong một thời gian dài.
Có một thời Vọng Nguyệt là một trong
những ngôi làng sầm uất và huyên náo bậc nhất bên dòng sông Cầu bởi việc
giao thương, bán mua tơ tằm luôn tấp nập người ra kẻ vào. Tơ tằm Vọng
Nguyệt được ưa chuộng chốn cung đình, vang danh chốn Kinh thành nên các
thương lái khắp nơi đổ về đặt hàng, người dân sản xuất không kịp cho
tiêu thụ. Nhờ đó mà đời sống ngôi làng nhỏ bên bờ con sông Cầu đã phồn
thịnh và no đủ trong vài thế kỷ.
Nhưng trải qua cuộc chiến binh lửa,
Vọng Nguyệt cũng bị ảnh hưởng sâu sắc từ binh biến của thời cuộc nên đã
bị mai một rất nhiều có những lúc tưởng chừng như rơi vào quên lãng.
Khi hòa bình lập lại, thập niên 80 của thế kỷ trước, những nghệ nhân đã
sống gần hết đời người vẫn luôn đau đáu với nghề cũ, nhớ tiếng quay tơ,
nhớ âm thanh kẽo kẹt, nhớ nong kén tơ tằm, nhớ bãi bồi nương dâu nên đã
họp nhau làm sống lại nghề nông tang của làng.
Với sự cần mẫn vốn có, với sự khéo léo
trời phú, tơ tằm Vọng Nguyệt làm ra óng ả, suôn mềm và giữ được bản sắc
như hàng trăm năm trước nên tiếng lành đồn xa các thương lái bắt đầu
kéo đến mua. Cùng với quyết tâm giữ nghề của lớp trẻ, sản phẩm làm ra đã
tìm được thị trường, nhiều hộ gia đình đã học hỏi làm theo. Từ đó cả
làng đã rộ lên phong trào trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ kéo kén. Vào thời
điểm đó, nhà nhà, người người tập trung sản xuất trong bầu không khí vui
như trẩy hội. Mọi người đều phối hợp rất nhịp nhàng thiếu nữ, cụ già
miệt mài quay tơ bên bếp lửa hồng, còn những chàng trai khoẻ mạnh thì
toả đi khắp nơi như Bắc Giang, Vĩnh Phúc... mua tơ, mua kén. Lòng người
phấn khởi, niềm vui chan hoà theo tiếng quay tơ kẽo kẹt. Âm thanh mộc
mạc và quen thuộc của làng quê bình yên lại vang lên sau gần nửa thế kỷ
vắng bóng khiến các cụ già trong làng mừng vui vô cùng và tràn đầy hy
vọng.
Người xưa ở Vọng Nguyệt có phường kén
thì nay Vọng Nguyệt có hội dâu tằm. Mỗi năm, người Vọng Nguyệt sản xuất
ra 60 -70 tấn tơ, gần 10% sản lượng tơ của cả nước. Ở Vọng Nguyệt đa
dạng các chủng loại tơ, từ tơ máy cao cấp, đến tơ máy mi ni, tơ thủ công
cải tiến, tơ vải kéo tay, tơ gốc, tơ xe…
Mỗi một năm 10 tháng, trẩy hội vui
xuân thoải mái đến cuối tháng 2 âm lịch hàng năm, các gia đình sẽ sửa
soạn đồ nghề máy quay, bếp lò, than đốt, để chuẩn bị bắt tay vào một mùa
kéo tơ mới. Từ các cụ già đến những em nhỏ khắp đầu làng cuối xóm nhộn
nhịp kéo kén ươm tơ, cứ như làng vào hội. Người Vọng Nguyệt vô tư và
bình thản , lãi cũng vui mà lỗ cũng cười xòa. Lãi thì dành vốn cho vụ
mùa năm sau, lỗ thì cùng ngồi lại tính toán tìm cách kéo lại. Ở đâu có
kén tốt, kén đẹp thì cả phường cùng báo nhau đi mua, ở đâu có mối bỏ
hàng lớn thì báo nhau đến chào. Người Vọng Nguyệt trọng nghĩa, trọng
tình hào sảng và cởi mở, họ không giấu nghề, giấu nghiệp đó là nét đẹp
trong thương mại của làng Vọng Nguyệt.
Giờ đây trước những đổi thay của thời
vận, tơ tằm Vọng Nguyệt cũng khó tránh khỏi những lao đao, nhưng dẫu khó
khăn thiếu thốn trăm bề, người Vọng Nguyệt vẫn cố bám trụ với nghề cổ
xưa như cách họ trân trọng quá khứ, trân trọng lịch sử về làng.
Vọng Nguyệt còn nổi tiếng là “Làng
khoa bảng” bên sông Cầu. Ở làng, có con cháu nhà ông Ngô Sử Toàn với bà
Chu Thị Bột có 5 đời đỗ khoa bảng (tiến sĩ), đều có người ra làm quan
trong triều phò vua, giúp nước, thương dân. Nhà sử học Phan Huy Chú phải
ca ngợi trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”: Làng Vọng Nguyệt ở
huyện Yên Phong có họ Ngô kể từ Ngô Ngọc đỗ chính bảng đời Hồng Đức rồi
năm đời đỗ tiến sĩ liên tiếp thực là xưa nay hiếm có”. Nhà thờ họ Ngô ở
Vọng Nguyệt đã được UBND tỉnh Bắc Ninh xếp hạng để gìn giữ một truyền
thống nhân ái và hiếu học cho muôn đời sau.
Khoa nhâm thìn 1532, dưới thời Mạc
Đăng Doanh, hậu duệ của Đô úy Chu Đình Dự đỗ tiến sĩ là Chu Địch Huấn.
Ông làm quan dưới triều Mạc đến hộ bộ thượng thư, tước Thiêm xuyên hầu.
Sang thế kỷ XVIII, Nguyễn Duy Thức đỗ tiến sĩ khi thi Hội ông đỗ đầu
khoa Quý mùi 1763 dưới thời lê Hiển Tôn, năm ông 30 tuổi. Ông là người
văn võ song toàn.
Sau thế kỷ XIX, dưới thời vua Tự Đức
trong dòng họ Ngô Quang có ông Ngô Quang Diệu đỗ phó bảng khoa Kỷ Dậu
1849. Ông làm quan đến hàn lâm viện. Từ Ngô Như Ngọc đỗ tiến sĩ khai
khoa, đến ông là người đỗ đại khoa, Vọng Nguyệt cũng là làng có nhiều
tiến sĩ nhất ở huyện Yên Phong.
Có thể nói Vọng Nguyệt là một trong số
ít những làng quê Việt Nam vừa giỏi làm nghề, vừa giỏi chữ nghĩa. Dẫu
ngàn đời mải miết bên khung cửu mưu sinh với cơm áo nhưng những người
nông dân chân lấm tay bùn vẫn không quên nhắc nhở, dặn dò cháu con phải
yêu chữ nghĩa như yêu nghề, họ truyền cảm hứng hiếu học cho những thế hệ
sau.
Dọc theo triền đê, dòng sông Cầu hiền
hoà vẫn ngày đêm sóng vỗ, như mạch nguồn bồi đắp phù sa cho những nương
dâu rì rào, xanh biếc, như truyền thống khoa bảng của làng sẽ chảy mãi
không thôi. Người Vọng Nguyệt tự nhủ với nhau rằng bao giờ nước sông Cầu
còn chảy, người làng vẫn cố bám trụ với nghề nông tang cho dù cuộc đời
nương dâu bãi bể và nhất định khốn khó đến đâu cũng phải bảo con cháu
học hành để viết tiếp truyền thống khoa bảng của làng.
Theo : danviet.vn