Làng "mài sắt thành vàng"
Làng nghề làm dũa Đại Phu thuộc xã An Đổ (Bình Lục, Hà
Nam) với những con người suốt ngày cặm cụi bên bếp lò, chiếc búa, sau
lũy tre không phải được nhiều người biết đến, tuy nhiên, nhưng trái
ngược với những hình ảnh ấy, sản phẩm họ làm ra lại xuất khẩu đi hơn 150 nước trên thế giới và thu về nguồn lợi không hề nhỏ.
Ngay từ năm 1952, lang Đại Phu đã có nhiều nhà, cả 4 - 5 đời làm dũa ở
làng. Theo các cụ cao niên, ông tổ của nghề này là cụ Vũ Khánh, cụ Khánh
từng là thợ mộc gốc làng Đại Phu. Sau một thời gian làm ăn xa, thấy thợ
mộc người Nhật có con dũa để mài cưa, cụ Khánh mới mày mò nghiên cứu,
tìm tòi làm ra chiếc dũa từ thanh sắt bỏ đi.
Do con dũa nhìn đơn giản, nhưng lại được sử dụng khá nhiều trong đời
sống sinh hoạt, cũng như một số ngành sản xuất. Song, Việt Nam lại chưa
có ai làm ra con dũa, nên cụ Khánh về làng hô hào con cháu làm nghề. Ban
đầu chỉ là những con dũa 3 cạnh thô sơ, được sản xuất từ những cây sắt
vứt đi của các biệt thự Pháp ở trong vùng, với số lượng ít để dùng, dần
dần mẫu mã, chất lượng dũa được nâng cao, sản phẩm được đa dạng hóa và
đem bán ra thị trường. Chất lượng dũa được đảm bảo, có uy tín cao trên
thị trường.
Với giá thành hợp lý, khách đến mua ngày một đông, sản phẩm làm ra
nhiều, đã tạo ra công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động. Với hơn
270 hộ dân, trên 800 nhân khẩu, thì có khoảng 700 người làm nghề làm
dũa. 100 người còn lại không tham gia với lý do quá già, hoặc còn quá
nhỏ để làm nghề. Trong số 270 hộ dân ấy, trung bình mỗi nhà có từ 2 - 3
lò bễ để nung và cán sắt.. , Ngoài ra, làng Đại Phu còn nhận thêm hàng
trăm lao động trong xã về làm công đoạn. Cái hay của nghề làm dũa là từ
người già đến trẻ nhỏ đều có thể tham gia làm nghề, chỉ những người quá
già yếu hoặc trẻ em đang giai đoạn ẵm ngửa mới không không tham gia, còn
lại trẻ mẫu giáo cũng đã có thể giúp bố mẹ canh coi lò bễ khi nung sắt ,
hoặc sắp xếp đóng thùng hàng hóa chờ xe tải về gom hàng.
"Xưởng"
chế tạo dũa của người làng Đại Phu chỉ đơn giản là một gian bếp nhỏ
gọn, chỉ có 1 - 2 lò than nhỏ lửa đang hồng rực vừa để nấu nướng, vừa để
tôi thép
Nguyên liệu làm dũa có 2 nguồn: Một là thép cây đặc chủng Y12A của Liên
Xô (cũ), hai là các loại vòng bi đã hết hạn sử dụng. Dụng cụ để làm dũa
khá đơn giản, gồm đe, búa, khuôn, dao băm, lò luyện, bễ rèn, đôi càng
nạo (nay được thay bằng máy mài chạy điện), axít và dung dịch xút để tẩy
rửa. Nghề làm dũa ở đây đã được đi vào chuyên môn hoá, theo 6 khâu cơ
bản: tạo phôi, tạo mặt phẳng, tạo răng, tôi luyện, kiểm hoá và đóng gói.
Công đoạn làm dũa chẳng hề đơn giản như nhiều người nghĩ: Đầu tiên là
dùng lò rèn để xẻ nguyên liệu, tạo phôi bằng khuôn, tạo phôi xong phải
mài mặt phẳng, mài xong đến công đoạn băm răng dũa. Công đoạn này cũng
phải làm thủ công, bởi lẽ băm dũa bằng tay thì gai sắc và gợn hơn băm
bằng máy. Khâu cuối cùng trong sản xuất dũa là tôi luyện tạo độ cứng của
dũa. Đây thực sự là bí quyết nghề nghiệp. Những người thợ lành nghề
hoàn toàn tôi luyện dũa bằng kinh nghiệm của mắt - nhìn dũa chuyển màu
để biết tôi luyện thế nào cho dũa cứng đủ độ, không non quá mà cũng
không già quá. Dũa làm ra nếu non quá thì kém chất lượng, mà già quá thì
dễ gãy.
Các loại dũa làng Đại Phu được làm ra đa dạng theo yêu cầu của khách
hàng với đủ hình thù như: tam giác, bán nguyệt, vuông, tròn, chữ nhật,
với hàng trăm chủng loại có kích cỡ từ 1 - 350 mm có thể sử dụng trong
nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngoài ra, các hộ làm dũa ở đây còn
nhận làm dũa mỹ nghệ cho các công ty chuyên trạm khắc gỗ, kỹ nghệ vàng
bạc.
Những người thợ lành nghề hoàn toàn tôi luyện dũa bằng sự từng trải, kinh nghiệm thông qua con mắt nhà nghề
Theo một gia đình đã 4 đời gắn bó với nghề làm dũa ở làng Đại Phu cho
biết: “Tất cả các loại dũa làng Đại Phu chúng tôi sản xuất ra cả trong
nước và trên thế giới đều là các sản phẩm được làm theo phương pháp
truyền thống”.
Từ năm 1957, làng dũa nơi đây bắt đầu thịnh vượng và làm việc như một
công xưởng khổng lồ với cả trăm hộ dân trong làng đều làm nghề dũa. Khi
đó, Làng dũa Đại Phu đã hoàn toàn phục vụ công nghiệp, trong khi cả nước
còn đang trung thành với nông nghiệp lúa nước. Ngoài việc xuất hàng đi
các tỉnh thành trong nước, nhiều đầu mối thu mua nước ngoài cũng đặt
hàng với Đại Phu.
Cho tới năm 1981, dũa của làng Đại Phu đã trở thành thương hiệu có
tiếng được ưa chuộng tại nhiều nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc… Nơi
đây thành lập những hợp tác xã khổng lồ với hàng trăm lao động làm việc
liên tục, nhưng vẫn không đủ hàng để xuất sang các nước bạn. Từ đó, thu
được nguồn ngoại tệ đáng kể và làm rạng danh cho làng Đại Phu. Ngày ấy,
dũa Đại Phu cũng đã đăng kí chất lượng sản phẩm và 3 lần đạt Huy chương
Vàng tại Hội chợ hàng tiểu thủ công nghiệp vào các năm 1980 - 1981 và
1982.
Và nỗi lo mất nghề
Những chiếc dũa thành phẩm được xuất xưởng bán đi khắp nơi trên thế giới, đã khiến thương hiệu dũa Đại Phu trở lên nổi tiếng
Tuy nhiên, từ sau thời gian hợp tác xã công nghiệp đóng cửa và chuyển
đổi mô hình tiểu thủ công nghiệp, thì nghề làm dũa ở đây không còn thịnh
vượng như trước. Các hộ gia đình quay trở lại với việc làm thủ công tại
nhà, chỉ có khoảng 10 hộ đứng ra thu mua và chuyển vào miền Nam cho một
đầu mối khác để xuất đi nước ngoài.
Mặc dù là làng nghề không ngừng phát triển, thu hút hàng trăm lao động
địa phương và các nơi khác đổ về, nhưng đời sống của người dân Đại Phu
vẫn ở mức trung bình. Hiện nay bình quân, một nhân công làm dũa một ngày
cũng chỉ được 50 000 - 70 000 đồng, làm liên tục cả một tháng cũng chưa
được 2 triệu đồng. Chính vì thế số hộ lao động ở Đại Phu ngày càng giảm
do giới trẻ hiện tại không còn tha thiết với nghề truyền thống.
Anh Tiến, một người gắn bó nhiều năm với nghề làm dũa ở Đại Phu trăn
trở: “Mặc dù không có nhiều nơi cạnh tranh làm dũa với Đại Phu, nhưng
sản phẩm của chúng tôi thường xuyên bị ép giá. Hầu hết, người làm dũa
chưa trực tiếp tìm được đầu ra cho sản phẩm, vẫn phải thông qua nhiều
doanh nghiệp thu mua khác. Lời lãi ngày càng ít, trong khi giá cả đầu
vào các loại mặt hàng tăng cao”.
Ngoài những yếu tố chủ quan làm ảnh hưởng đến làng nghề, thì cũng có
không ít những yếu tố khách quan khác tác động đến nghề làm dũa nơi đây
như: giá thành nguyên liệu, đầu ra cho sản phẩm... Nếu như cách đây vài
năm, giá thép mà làng nghề Đại Phu nhập vào chỉ có 7.000 - 10.000
đồng/1kg, thì hiện nay, đã tăng lên tới 15.000 - 20.000 đồng/1kg. Thêm
vào đó, giá điện, than, xăng dầu ngày càng tăng lên trong khi giá bán
dũa vẫn không thay đổi. Đó là những thách thức đối với nghề làm dũa ở
Đại Phu trong cơn “bão giá” như hiện nay.
Ngoài ra, do nghề làm dũa phải sử dụng một nguồn điện lớn, nên việc
cung cấp điện cho người dân nơi đây luôn ở trong tình trạng quá tải. Vào
những giờ cao điểm, điện yếu, hệ thống nước thải axít tẩy dũa đã làm ô
nhiễm một khoảng cánh đồng của làng và đang trở thành vấn đề gây nhức
nhối. Hiện nay, làng Đại Phu đang kiến nghị với tỉnh Hà Nam hai vấn đề:
nâng cấp trạm biến áp điện và xử lý tình trạng ô nhiễm ở cánh đồng làng
do nước tẩy axit gây ra, nhưng vẫn chưa được giải quyết.
Những khó khăn trên đã và đang trở thành những thành thách thức lớn đối
với sự gìn giữ, bảo bồn và phát huy làng nghề truyền thống một thời
“hưng thịnh” này.
Theo : congly.com.vn