Hò
Khoan xứ Quảng sắc xuân dân gian độc đáo
Nói đến Văn hoá Quảng Nam không thể không nhắc đến văn
nghệ dân gian. Trong các loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian xứ Quảng ngày
xưa được ưa chuộng, nếu để chọn ra những món ăn đặc sản tinh thần không thể
thiếu thì đó là diễn xướng bài chòi và Hò khoan đối đáp. Bài chòi trước đây chỉ
được tổ chức vào dịp Tết Nguyên Đán, nó hiếm hoi như vậy là vì mỗi lần tổ chức
khá tốn kém, việc chuẩn bị cũng phải tỉ mẩn : tranh, tre, nứa, lá , kèo, cột
làm chòi rồi bàn, ghế, cờ xí, vật dụng, trống phách, ban bệ cần có cho một
"hội" bài chòi. Nói hội ở đây không phải là một "ván cờ",
một lượt chơi, mà là một tổ chức. Nó "kép công " như vậy nhưng sau
Tết rồi nếu có chủ ý giữ gìn bảo quản để lại tái sử dụng cho năm sau cũng không
thể, vì tranh tre mục nát mối mọt cả. Mà đã là năm mới thì ai lại dùng đồ hư
hỏng bao giờ? Xui xẻo đầu năm lắm! còn tổ chức tại một mái chợ, ngôi trường
v.v...thì chẳng ra cái hội bài chòi. Còn Hội hò khoan thì khác hẳn.
Hò khoan
là một loại hình "dân ca" sinh hoạt dân gian miền sông nước, là "lời
ăn tiếng nói" của quần chúng lao động được trải nghiệm, thu nhận qua vốn
sống hàng ngày mà biểu lộ ra, qua tài năng của các nghệ nhân được cải biến đi,
nâng tầm lên thành vần điệu cho nghệ thuật hơn, làm phương tiện để trao đổi,
bày tỏ, chuyển tải tâm tình giữa những cá thể, những tập thể với nhau trong
cộng đồng. Ở Quảng Nam,
gọi là hò khoan vì đây là một dạng hò "lơi". Các nghệ nhân lợi dụng
câu hố ( À ơ... ơ...ớ....Khoan...ơ... hố hợi...là hò...khoan ) như một tiểu
xảo, kéo dài ra để có thời gian mà tìm ý, lời đối đáp.Hố thường đồng xướng tập
thể, hoặc một người xướng, tập thể hò xô theo để tạo thêm khí thế, cho nên người
xưa có câu ví von rằng:
Gốc
tre khéo nấu cũng ngon
Hò
khoan hát dở, hố dòn cũng hay
Ông cha
ta, trong cuộc hành trình về phương Nam đi mở đất đã "gánh theo
tên đất, tên làng" và mang theo cả những câu hò trong huyết quản. Do đó,
Hò khoan hiện diện từ Bắc chí Nam,
đặc biệt rất phát triển ở dải đất miền Trung. Bây giờ chúng ta còn được nghe Hò
khoan Quảng Bình, Lệ Thuỷ, tại những hội lễ làng bên sông Kiến Giang.Tại miền
Trung, hò khoan có mặt ở khắp các tỉnh, mỗi tỉnh lại có cách thể hiện khác
nhau. Khi vào đến miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long thì hò đối đáp có sắc
thái êm ả, phóng khoáng hơn rất nhiều như ta nghe một điệu hò Đồng Tháp, đôi
câu đối đáp huê tình...
Ở nông
thôn ta trước đây, vào những dịp nông nhàn, tấn vụ ( trước khi xuống đồng vào
vụ mới, nông dân làm lễ cúng Thần Nông, hoặc sau vụ thu hoạch mùa màng, lúa đầy
bồ, cá tôm đầy bến ...) vào những đêm trăng sáng ,trai thanh, gái lịch rủ nhau
ra sân đình làng hoặc bãi đất nơi bến sông rộng, thoáng để lập hội hát Hò
khoan. Đó là những cuộc chơi "hoành tráng". Còn thường ngày khi lao
động trên đồng cạn,dưới đồng sâu đều có thể đối đáp cho vơi đi nhọc nhằn
vất vả. Nhiều lúc cao hứng họ có thể hát đối đáp với nhau trên thuyền, giữa
thuyền này với thuyền khác khi đang bồng bềnh trên sóng nước trữ tình. Một Hội
Hò khoan không đòi hỏi chuẩn bị gì nhiều, tất cả vốn liếng là "ở trong ruột"
, hừng tình là hát ở bất cứ đâu cho nên, hò khoan dễ tổ chức hơn.
Tại Quảng
Nam, theo các bậc "cao niên trưởng thương" thì hồi ấy, ở địa phương
nào cũng có Hội hò khoan, thậm chí một địa phương cũng có nhiều hội. Đó
là một tổ chức tự nguyện (như Câu lạc bộ bây giờ),quy tụ những "tài
năng" ứng đối giỏi, có thể "xuất khẩu thành thơ" ngay, hát được
mọi chủ đề, mọi tình huống, kiến thức rộng để không bị đối phương "bắt
bí". Có khi nhiều nhóm trong một địa phương tổ chức đối đáp với nhau, lại lắm
khi "con gà tức nhau tiếng gáy", các hội cách xa nhau dưới biển trên nguồn,
nghe tiếng biết tên nhau cũng tìm đến thi thố hát hò. Có vị ê chề vì thua mưu
hát xạo nên biệt xứ tha phương, lại cũng lắm khi vì khích bác nhau nặng nề nên
xảy ra xô xát dẫn đến thương vong.
Tôi xin
nêu lên đây một vài câu hát xạo
do các nghệ nhân cao tuổi kể lại để chúng ta cùng tham khảo :
Nam :
Ta muốn hôn má bậu mà chơi
Hoa
kia còn phong nhuỵ Bướm lả lơi phỉ tình
Nữ : Má đâu có sẵn mà hôn chơi
Anh ra
ngoài đồi bắt chó mà hôn
Nam: Trên
sơn dưới thủy, bạn giữ kỹ làm gì
Tiền
thân hậu phúc, kiếm chút ấu nhi mà bồng.
Nữ : Trên sơn dưới thủy, ta có giữ kỹ cũng ra đám đất bằng
Mai
sau bạn có chết thì ra chỗ nớ lập cái lăng mà thờ!
Qua mẩu
đối thoại trên ta có thể thấy người nam từ chỗ hát ghẹo, do "tán tỉnh"
thái quá, thiếu lịch lãm nên không được người nữ chấp thuận mà trả đũa thẳng
thừng. Dường như chưa thoả, một nữ khác phụ hoạ thêm:
Nữ: Nghe đồn chàng khát nước thèm nghêu
Gặp
chàng đây thiếp thử trao nghêu cho chàng cầm,
Cầm về
bỏ vô ảng mà ngâm
Cho
nước nó ra mà uống, nghêu cầm mà chơi!
Đến nước
này thì người nam chẳng thể nhịn, vội đốp chát với miếng võ "gậy ông đập
lưng ông " của bên nữ.
Nam:
Bạn trao nghêu thì để ta cầm
Ta cầm
về bỏ ảng ta ngâm
Nước
ra đôi chén, ta cầm về cho nhạc gia
Ông
uống rồi ông lại thở ra,
Khen
cho thằng rể ở xa (mà) hiếu tình.
Đây chỉ là
những câu hò chưa "nặng đô" lắm, nhiều câu còn "độc địa” hơn nhiều
khiến người trong cuộc dễ "tăng huyết áp". Nếu trong Hội có người cao
tay hơn, uy tín hơn ra tay "hát can, hát rước" để giải mối bất đồng và
lái câu chuyện đi về phía khác thì mới không đổ vỡ, nếu không, cao trào đỉnh
điểm sẽ càng lúc càng được đẩy cao thêm.
Hò khoan
hát xạo là mảnh đất để các bên bộc lộ hết "vốn liếng" tài năng ứng
đáp, gây thích thú cho người đi xem hội sau mỗi câu đối-đáp đốp chát đầy bất
ngờ, nhưng dễ dẫn đến hát tục, hát ngạo...là một ngón đòn "độc", dễ
gây mất hoà khí nên sau này bị dư luận phản đối, các hội hò khoan cũng ít ưa
dùng, dần dần dẫn đến thất truyền.
Trong Hò
khoan đối đáp có nhiều công đoạn thể hiện như những tiểu đoạn, và một buổi hát
đối đáp phải đi qua các công đoạn đó. Thường thì khi mới vào cuộc, hai bên chào
hỏi giao đãi, mời mọc xã giao, đến khi "bén tiếng, quen hơi" thì bắt
đầu "bắt chạn" để hát cùng, gọi là hát "kết", kết bạn, kết
nghĩa, kết duyên...nhiều đôi trai gái phải lòng nhau qua ý lời trao gởi và nên
nghĩa vợ chồng. Trong cuộc hát , lại có nhiều nội dung xen lẫn như hát đố, hát
xạo, hát ghẹo, hát huê tình, nhân ngãi, sinh tử, hát ống, hát nhắn, hát trách,
hát chờ...đến khi sắp tàn cuộc thì hát hẹn, hát xa để chia tay, giã bạn và hẹn
nhau vào dịp khác. Sau đây là một số câu hát tiêu biểu:
Hát
chào:
Gặp
nhau một chút nên duyên
Xin
mời bên đó cất lên giọng hò
Ở
ngoài xa tôi nghe tiếng bạn hò
Cách
sông tôi cũng lội, cách đò tôi cũng sang
Tới
đây, tôi chào hết bạn vàng
Chào
người thục nữ, chào nàng thuyền quyên
Nam :
Gặp anh sao chẳng hỏi, chẳng chào
Hay là
em đã có chốn sang giàu hơn anh ? (hát trách)
Nữ : Tối tăm em còn biết nút mà gài
Chừ
đây biết quen hay lạ, biết ai mà chào?
Hát
kết:
Tới
đây anh lạ, em cũng lạ
Em bận
áo hò cụt, anh bận áo đen dài
Anh
nói với em huỷ huỷ hoài hoài
Biểu
em đừng kết nghĩa với ai
Để còn
kết nghĩa lâu dài với anh
Ai
trắng như bông lòng tôi không chuộng
Thấy
em đen dòn làm ruộng tôi thương
Biết
rằng dạ có vấn vương
Để tôi
cậy mối tìm đường sang thăm
Bướm
đeo dưới bụng cây bần
Anh
muốn vô kết nghĩa đá vàng được không ?
Em còn
bán tín, bán nghi
Chưa
đem vô dạ, chưa ghi vào lòng
Hát
ghẹo:
Trứng
vịt đổ lộn trứng gà
Thấy
em má đỏ anh đà muốn hun ( hôn )
Muốn
hun về nói với mẹ cha,
Tiền
cheo, heo cưới tới nhà mà hun.
Nực
cười con Kiến kiện con Rồng
Bạn
xít ra cho khỏi kẻo chồng ta ghen
Cọp
nằm kẽ đá mài răng
Mấy
thằng chồng ghen vặt ông ăn cho rồi
Ai về
nhắn với ông câu
Con cá
ăn không giựt, để lâu mất mồi
Mất
mồi này ta câu mồi khác
Cá
biển nhiều xao xác thiếu chi ?
Hát
nhân ngãi:
Cọp mà
vật mấy ông thầy địa
Yêu mà
nhai mấy thầy bói chọn ngày
Trớ
trêu họ khéo đặt bày
Mình
cứ thương cho hết dạ thì cao dày cũng phải nghe
Vợ
chồng là nghĩa phu thê
Tay ấp
má kề, sinh tử có nhau
Chẳng
tham của sẵn anh đâu
Tham
vì nhân nghĩa năm đầu ngón tay
Bao
giờ cho đặng sum vầy?
Giao ca
đôi mặt dạ này mới vui
Hát
sinh tử:
"...Ngó
vô trong cảnh gia đàng
Nhơn
sầu cảnh dị, hoa tàn nhuỵ khô
Một
mình quày quả ra vô
Bải
nước trầu còn đố mẹ con đi mô không thấy về
Hay là
em ly biệt phu thê
Em hẹn
hò non nước, bỏ bê chốn dương trần..."
Hát
đố :
Trong Hò
khoan đối đáp lắm khi các bên đưa ra một vế đối ít ai ngờ tới, nội dung câu đố
thường không cao siêu nhưng mưu trí, gọi là "đố mẹo", hát đố cũng gây
sự thích thú khi nội dung câu đố đã được"giải mã" hợp lý hợp tình.
Đối :
Bánh
dẫu nhiều sao gọi là bánh ít (một loại bánh thường có ở Hội An )
Chuối
con non sao gọi chuối già? (tên cây chuối hột )
Nếu
anh mà đối dặng mới thiệt là đáng khen
Đáp :
Sao canh chua loét cũng kêu canh ngọt ( rau bồ ngót và lấy từ
ý câu " cơm lành, canh ngọt" )
Cau
cao nghệu sao gọi cau lùn? ( tên loại cau )
Thuyền
quyên mà có hỏi nữa, anh hùng chẳng chịu thua!
Đố
lái: Đây là
đặc thù của xứ Quảng. Bên cạnh cái sự "cãi", nói lái cũng được người
Quảng ưa dùng, không những thế, họ còn vận dụng đưa vào lời hát hết sức tài
tình tài tình. Chỉnh vế, chính cả ý tứ. ( chủ yếu là lái âm, lái ý nhưng cũng đôi khi rất chỉnh từ
). Nếu bảo rằng đây là một "nghệ thuật" cũng không ngoa
Đối: Con cá đối nằm trong cối đá
Mèo
đuôi cụt nằm
mút đuôi kèo
Anh mà
đối đặng, dẫu nghèo em cũng ưng
Đáp: Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ
Con
chim vàng lông đáp tại vồng lang
Anh đà
đối đặng, anh e nàng vong ngôn
Đối: Con Cua, con Rồng xuôi ngược mấy con?
Em mô
mà đối được ,anh mua chăn cho nằm
Đáp: Con cua, con rồng xuôi ngược có 4 con
Cua,
Rồng nói
ngược là con Công, con Rùa
Đáp
được, đó chịu thua chưa ?
Lựa
chăn mô đắp cho vừa thì mua.
Không
chịu, người con trai lại trổ mòi lái xạo bắt từ ý câu đáp của nữ:
Anh
hỏi lại em rằng sao người ta bảo là con Công gù?
Em mô
đáp đặng anh đem võng dù anh đón đưa
Tại thành
phố Hội An vào định kỳ đêm 14 âm lịch hàng tháng Tái hiện Đêm Phố cổ và vào những dịp lễ hội, trong các
chương trình Phố đêm, hát Hò
khoan là nội dung thường xuyên được thực hiện trên thuyền nơi bến Sông Hoài do
các nghệ nhân Đội Hò khoan ứng đáp
đảm trách. Thành phố cũng đã phát động Liên hoan Hát Hò khoan toàn thành hằng
năm để phát hiện và nuôi dưỡng phong trào. Thật thú vị khi nghe lớp trẻ thể
hiện Hát Hò khoan. Bên cạnh những lời hô hát cũ sưu tầm, các đội hò khoan đã có
thêm những sáng tạo mới. Chúng ta hãy cùng hoà nhập với Sắc Xuân hò khoan trẻ
qua đoạn đối đáp " Đố tục, giảng thanh
"sau :
Nếu mà
quả thiệt bạn rành
Thì
trả lời cho rõ ngọn ngành cái nghề ni:
Xung
quanh cỏ mọc xanh rì
Chuyện
chi anh xăm xăm tới đó, chân quỳ , chân co
Mon
men, hồi hộp tay mò
Đút vô
xúc động ngẩn ngơ tâm thần
Rút ra
, anh rút dần dần
Anh hể
hả vui mừng vì có một con
(người
đi mò cua)
Chị
tôi cái bụng to phành
Miệng
thì tí tẹo lại chành hai bên
Lúc
nào cũng muốn được ăn
Xấu
người mà tốt bụng, cứ hối chàng đút vô
Đút vô
phải lắc ào ào
Đến
khi no bụng bổ nhào nó ra
(Cái
lồng binh đất)
Còn đây,
câu đố của Nữ dành cho Nam,
họ tiếp cận cái mới một cách tài tình ít ai ngờ tới.
Em
khoe lớp áo xanh đỏ, tím vàng
Lớp
vải căng căng nhìn thôi đã thú
Nhòn
nhọn như bánh ú, tròn như quả cam
Ngày
thì ít ham, đêm về mới thích
Mân mê
ve vuốt chẳng nỡ mạnh tay
Sè sẹ
mở dây, cưng như cưng trứng.
(Chiếc
đèn lồng Phố Hội)
Các nghệ
nhân nói rằng :Nghề hát hò khoan nó cũng có con
ma" .Nhiều khi mãi mê đối đáp đến khi trời hừng đông mới chịu
tan hội. Và như còn dùng dằng luyến tiếc, họ bùi ngùi chia tay và hẹn ngày tái
ngộ.
Hát
xa, hát hẹn:
Nát
lòng đôi ngã phân ly
Bạn về
xứ bạn, thiếp quy xứ mình
Chừ
đây bóng nọ xa hình
Hội ni
sơ ngộ, ta hẹn mình ngày sau
Biển
trời non nước gặp nhau
Với
điệu hò khoan lưu luyến biết bao nghĩa tình
Kiểng
xa hồ, hồ khô kiểng héo
Lựu xa
Đào, Lựu ngã, Đào nghiêng
Gặp
nhau chưa đặng một phiên
Chừ
đây cách mặt biết ai phiền hơn ai
Cứ
trông rồi mốt, rồi mai
Thuyền
kia, bến nọ láng lai tâm tình......
Hiện nay,
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, so với Bài chòi thì Hò khoan còn hoạt động rất
nhiều nơi tại các miền quê nhưng những nghệ nhân giỏi giang ngày một vắng bóng
mà không có lớp kế thừa xứng đáng là điều đáng để cho các nhà hoạch định chiến
lược Văn hoá văn nghệ dân gian trăn trở. Một trong những lý do đó, theo một số
nghệ nhân cao tuổi thì khả năng nhạy bén trong ứng đáp (kiến tại, bắt quờ...)
của lớp hậu sinh kém dần, tính ganh đua cần có để thể hiện, chứng tỏ bản lĩnh
không cao.
Hơn nữa,
lớp trẻ hiện nay có quá nhiều thú vui mới hiện đại hơn nên không còn thiết tha
với hát hò khoan. Mặt khác, thiếu yếu tố hát xạo cũng làm cho tính hấp dẫn bị
triệt tiêu. Bác Nguyễn Mại ở Điện Bàn (đã mất) và Bà Nguyễn thị Huệ ở Thanh Hà
Hội An, những nghệ nhân từng tham gia thường xuyên tại Đội Hò khoan ứng đáp ở
Hội An lý giải: "Nếu bảo hát xạo là phi
văn hoá, không nên duy trì thì tại sao thơ bà Đoàn thị Điểm, Hồ Xuân Hương lại
được ca tụng ? và nếu nó thô tục thì tại sao những câu hát xạo Quảng Nam lại
"sống" và đã in trong sách phổ biến để làm gì?". Cũng
là một câu hỏi chưa có câu trả lời xác đáng.
Ngày
Xuân, trong không khí trời đất giao hoà, lòng người cũng rộn rã với Xuân Quê
hương, đất nước. Dù không rộn ràng mở hội vào xuân như các hội Bài chòi, nhưng
Hò khoan có một bẳn sắc riêng, một hương sắc xuân bốn mùa lan toả, một sức sống
xuân qua những câu hò dân dã nhưng đầy chất trí tuệ, hóm hĩnh, vui tươi. Xứng
đáng có chỗ đứng trang trọng và bền chặt trong lòng công chúng, trong văn hoá
dân gian Quảng Nam
và trong kho tàng tinh hoa của dân tộc .
Theo văn học