(TT&VH Cuối tuần) - Daria
Mishukova đã hơn 5 năm giảng dạy tiếng Việt và làm nghiên cứu về Việt
Nam học, ngôn ngữ học. Từ năm 2003, chị là Phó giám đốc trung tâm Văn
hóa Việt Nam tại Vladi- vostok. Đầu năm 2007, chị xuất bản cuốn sách Việt Nam - Đất nước con rồng cháu tiên
bằng tiếng Nga, tạo dấu ấn khá tốt trong lòng độc giả, được tái bản vào
năm 2010. Tháng 5/2012, Daria Mishukova được Bộ VH,TT&DL Việt Nam
trao Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch. Chị còn
là tác giả cuốn sách Thái Lan - Đất nước chùa chiền và cung đình; cũng là nhà sưu tập tiền giấy, tiền xu qua các thời đại.
Trong lần trở lại với độc giả TT&VH Cuối tuần kỳ này, Daria Mishukova tập trung vào việc phân tích những cách hỏi của người Việt làm người phương Tây khó chịu.
Dù cuốn sách Việt Nam - Đất nước con rồng cháu tiên
có dành chuyên mục “Câu hỏi cá nhân” trong chương “Tính cách con
người” để giải thích về nguyên nhân văn hóa của những câu hỏi
làm cho khách nước ngoài thấy khó chịu khi giao tiếp với người
Việt. Thế nhưng, điểm chính yếu của nó vẫn là tập trung vào những
nét văn hóa tốt đẹp hoặc giải thích về những nét văn hóa độc
đáo, mang đậm tính chất dân tộc - những điều mà người nước ngoài
hay hiểu lầm, nếu không biết cơ sở văn hóa và bản sắc văn hóa
của nó.
![](http://media.thethaovanhoa.vn/2012/08/16/11/20/Daria-Custom.jpg)
Daria và cuốn sách Việt Nam - Đất nước con rồng cháu tiên bằng tiếng Nga. Ảnh: TL
|
Ức chế với tiếng lóng*
Sau khi hoàn thành cuốn sách có tính cẩm nang về văn hóa và lối sống
Việt Nam, bên cạnh những điều lý thú, chị có phát hiện ra những khiếm
khuyết nào trong lối sống của người Việt?
-
Tôi tin tưởng rằng thế giới xung quanh chúng ta rất đa dạng.
Khả năng tìm hiểu càng cao, kiến thức càng sâu rộng, thì khả
năng tiếp thu cái đẹp cũng tăng lên. Trong văn hóa Việt Nam có
nhiều điều mang tính chất bách khoa, có một số điều mang đậm bản
sắc dân tộc, có một số điều rất độc đáo. Nhiều khi những khía
cạnh văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc người nước ngoài có thể
hiểu lầm và phê phán nếu chưa được giải thích về ý nghĩa cũa
nó, nhưng sau khi đã giải thích về nguyên nhân, về ý nghĩa của
hiện tượng văn hóa, thì thấy dễ chấp nhận hơn.
Nếu
không đề cập đến câu hỏi về tuổi tác - đối với người Việt
là một câu hỏi cần thiết giúp người tham gia giao tiếp xác
định cách xưng hô - thì nhiều khi người Việt Nam làm phiền
người nước ngoài với những câu hỏi mang tính chất cá nhân,
hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh giao tiếp chung. Ví dụ,
tại sao người lái xe taxi hỏi khách nước ngoài ngồi trong xe:
“Anh/chị đã sang Việt Nam lâu chưa? Khi nào anh/chị về nước?”.
Mục
đích của câu hỏi là gì? Khách nước ngoài có đủ cơ sở ngạc
nhiên: làm sao mà tôi phải báo cáo về kế hoạch đi lại của
mình hoặc trao đổi về hành trình du lịch với người mà tôi gặp
lần đầu tiên và rất có khả năng là lần cuối cùng. Khi người
bạn, đồng nghiệp, người quen hỏi câu hỏi này, thì ai ai cũng
thấy bình thường, nhưng khi được hỏi như vậy trong taxi hoặc
trong cửa hàng xa lạ thì rất là phiền. Đặc biệt là khi có
nhiều cuộc gặp trong ngày, đi lại đến 6-7 taxi, mà đều bị “tấn
công” với câu hỏi như thế, sẽ rất ức chế.
![](http://media.thethaovanhoa.vn/2012/08/16/11/21/Daria-Mishukova-1-Custom.jpg)
* Có một câu hỏi nào khác làm chị khó chịu tương tự không?
-
Những câu hỏi như vừa nêu tuy có tạo không khí hơi khó chịu
trong giao tiếp hàng ngày tại Việt Nam, nhưng có thể thông cảm
được, vì cội nguồn của nó nằm trong phạm vi thế giới quan
truyền thống của người Việt và xuất phát từ hệ thống xưng hô
trong tiếng Việt. Nay tôi nói về một câu hỏi khác.
Người
Việt Nam thường xuyên làm cho người nước ngoài biết nói tiếng
Việt thấy ngạc nhiên với câu hỏi này. Gần như ai cũng hỏi, từ
người có địa vị cao trong xã hội, nhà giáo, giới nghiên cứu cho
tới tầng lớp bình dân. Đó là: “Anh/chị/em có biết tiếng lóng
không?”.
Biết
tiếng lóng để làm gì? Nói tiếng lóng đã trở thành tiêu
chuẩn và chỉ số về trình độ tiếng Việt từ khi nào? Tiếng
lóng có phải là đỉnh cao của t i ế n g V i ệ t không? Câu hỏi
này được hỏi nhiều như vậy, tạo trong người nước ngoài ấn
tượng người Việt coi nhẹ tiếng Việt hàn lâm, coi nhẹ tiếng
Việt hành chính, coi nhẹ tiếng Việt văn học, coi nhẹ tiếng
Việt sử dụng trong giao tiếp xã giao. Hóa ra, sự phong phú và đa
dạng của tiếng Việt chỉ có thể hiện được qua việc “chửi” và
nói tiếng lóng hay sao? Có khi người Việt khen một người nước
ngoài: “Anh A. này rất giỏi tiếng Việt, biết nói tiếng lóng”.
Có khi người Việt nói: “Tiếng Việt rất phong phú, ở nông thôn
người ta nói tiếng lóng rất nhiều, kể cả người Việt cũng
không hiểu được”. Hóa ra tiếng lóng đối với người Việt trở
thành một định lượng của văn hóa. Một quan điểm thật lạ.
![](http://media.thethaovanhoa.vn/2012/08/16/11/22/Daria-Mishukova-Custom.jpg)
Trong
xã hội phương Tây nói chung, trong xã hội Nga nói riêng, việc
nói tiếng lóng là một hiện tượng xác định trình độ văn hóa
thấp, nên tránh. Bất cứ ngôn ngữ nào có nhiều hiện tượng ngôn
ngữ là tiếng lóng, nó đều thuộc vào trình độ thấp: xã hội
thấp, văn hóa thấp. Và tất nhiên, không ai khoe khoang về việc
nói tiếng lóng cả!
Còn
ngôn ngữ học thì nghiên cứu về hiện tượng này như một phạm
trù trong phát triển ngôn ngữ, một hiện tượng xã hội. Nhưng
khác với người Việt, ở Nga người ta không bao giờ biến tiếng
lóng thành một loại tiêu chuẩn xác định trình độ kiến thức về
ngôn ngữ và mức thông thạo tiếng nước ngoài.
Cũng
xin nói thêm, nhiều khi người Việt quên rằng người nước ngoài
học tiếng Việt để sử dụng với những mục đích thực tế. Phương
hướng sử dụng phụ thuộc vào lĩnh vực cụ thể. Tiếng Việt hành
chính để sử dụng trong giao tiếp ngoại giao. Tiếng Việt với
khuynh hướng về từ vựng luật và kinh tế để xây dựng quan hệ
thương mại và tăng thêm mức độ hiểu biết lẫn nhau với đối tác
kinh doanh. Tiếng Việt chuyên về nghệ thuật và khoa học đối với
chuyên gia tham gia giao tiếp trong lĩnh vực tương ứng. Đương nhiên
tiếng lóng và cách nói bóng gió là phạm vi ngôn ngữ hoàn
toàn không phù hợp với những mục đích chính làm cho người nước
ngoài học tiếng Việt. Tôi chưa bao giờ nghe người Việt nói
tiếng lóng hay bóng gió trong cuộc đàm phán chính thức hay trong
bữa tiệc ngoại giao, vì đó là vốn từ vựng không phù hợp với
bối cảnh giao tiếp thực tiễn giữa người Việt và người nước
ngoài.
![](http://media.thethaovanhoa.vn/2012/08/16/11/22/Daria-Mishukova-2-Custom.jpg)
Đã “văn hóa” thì đừng “chửi”
* Còn câu hỏi về tuổi, tại sao chị nói nó “bất tiện”?
-
Đối với người nước ngoài những câu hỏi như thế này nằm trong
phạm vi cá nhân, không được hỏi khi giao tiếp xã giao. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, khi giao tiếp với người nước ngoài, người
Việt cũng nên để ý bên đối thoại, nhằm tránh các câu hỏi không
phù hợp và biết tôn trọng văn hóa, tình cảm của người khác.
Ngay
trong xã hội Việt Nam, đặc biệt tại một số cơ quan, hệ thống
xưng họ truyền thống đang được đơn giản hóa. Cụ thể là tại ngân
hàng Vietcombank, trong giao tiếp hành chính, cơ quan chỉ sử dụng
hai từ xưng hô thôi: “anh” khi nói với đồng nghiệp nam, và “chị”
khi nói với đồng nghiệp nữ, không phân biệt về tuổi như ông, bà,
bác, cô, em, con, cháu... Đó là nhận xét mà chính người Việt đã
chia sẻ với tôi, chứ không phải là nhận xét riêng của tôi. Ở
đây chúng ta không đánh giá hiện tượng đơn giản hóa hệ thống xưng
hô có vai trò như thế nào, mà chỉ nói hiện tượng ngày càng phổ
biến hơn trong môi trường giao tiếp hành chính ở Việt Nam. Nếu
đúng người Việt đang thể hiện xu hướng đơn giản hóa trong hệ thống
xưng hô, thì tại sao trong giao tiếp với người nước ngoài, người
Việt vẫn cứ tiếp tục đặt những câu hỏi bất tiện về tuổi?
* Sống và làm việc ở Việt Nam nhiều lần, chị cảm thấy thế nào khi gặp phải những tình huống kiểu “văn hóa chửi”?
-
Trước hết như một nhà ngôn ngữ học, tôi thấy sử dụng cụm từ
“văn hóa chửi” trong câu hỏi là không phù hợp về lô-gíc, vì hai
từ này trái nghĩa và ngược nghĩa nhau. Vì “chửi” có ý nghĩa
là “không đủ văn hóa và trình độ để diễn đạt ý tưởng của mình
bằng ngôn ngữ giao tiếp tiêu chuẩn”. Khi giao tiếp với tôi, người
Việt cố gắng nói rất lịch sự và nhẹ nhàng, không ai dám chửi
trước mặt. Vì cả hình dáng, cách ăn mặc, cách nói, cử chỉ của
tôi làm cho mọi người chỉ thể hiện tính cách tốt đẹp nhất. Có
khi tôi đến cơ quan nào đấy như ngân hàng, thì nghe người ta nói
với nhau về tôi: “Cô này là người quý tộc, giống như nàng công
chúa”. Họ không nghĩ tôi hiểu được tiếng Việt, nhưng tôi thích
nhận xét này nảy sinh trong họ. Khi biết về kiến thức của tôi
nữa, thì người Việt thể hiện thái độ tôn trọng hơn nữa. Do vậy
mà tôi không gặp phải hiện tượng chửi dù trực tiếp hay gián
tiếp. Tốt nhất, đã nói đến “văn hóa” thì đừng “chửi”, và ngược
lại .
Văn Bảy (thực hiện)