Làm
thế nào để lễ hội trong kho tàng văn hóa phong phú của dân tộc không bị
mất đi bởi những điều tầm thường, để cái “thiêng” không bị cái “phàm”
hạ nhục và che khuất ? Làm thế nào để gìn giữ và phát huy những giá trị
văn hóa của lễ hội trong vòng xoay của kinh tế thị trường vẫn quen lấy
lợi nhuận làm thước đo?
Tổ chức theo kinh nghiệm?
Lễ
hội sinh ra và được duy trì bởi những nhu cầu văn hóa, tâm linh của xã
hội. Lễ hội diễn ra để thỏa thỏa mãn những khát vọng, những mong mỏi của
con người. Nhu cầu đó không giảm đi mà ngày càng tăng và biến đổi cùng
sự phát triển của xã hội, sự bùng nổ của thông tin, sự thay đổi của tập
quán (mang tính thời đại).
Lễ Phù Gióng ở Lệ Chi nam (Gia Lâm) mới được Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam (Bộ VH, TT&DL) phục dựng. |
Trái
với mọi sự dễ dãi, việc phục dựng lại đầy đủ các yếu tố văn hóa, tâm
linh của một lễ hội đòi hỏi nghiên cứu một khối tư liệu đồ sộ, cần sự
đầu tư mạnh mẽ từ phía Nhà nước, của các cơ quan khoa học, của các đơn
vị tham gia... Làm được như vậy mới có thể tái hiện lễ hội (gần) chân
xác như nó đã diễn ra. Công việc phục dựng những lễ hội (nếu có thể) cần
được nghiên cứu tỷ mỷ và luyện tập công phu. Lễ hội phục dựng phải
hướng đến cộng đồng. Đây cũng là tiêu chí cần được khuyến khích cho tất
cả các lễ hội theo tinh thần của UNESCO.
Tuy
nhiên phần lớn lễ hội (đang diễn ra) hiện nay không đủ tư liệu lịch sử
để hiểu về nó một cách đầy đủ và chân thực như nó đã từng diễn ra. Hiện
nay, đại đa số (nếu không nói là gần như tất cả) lễ hội trong cuộc sống
đương đại đang được những người đương thời tổ chức theo kinh nghiệm,
hiểu biết (nhiều khi không đầy đủ) của mình, thậm chí sáng tác cả những
“truyền thuyết” không hề có trong lễ hội. Kịch bản lễ hội nhiều nơi na
ná nhau: Kiệu được rước, lễ vật được bày biện; hết diễn văn của lãnh đạo
chính quyền sẽ đến lễ tế của đội tế; sôi động hơn thì có thêm các đội
múa lân, múa rồng; góp vui thì có thể có vài tiết mục “văn nghệ dân
gian”, vài liền anh liền chị được thuê, vài bài đồng diễn của “phong
trào quần chúng”; để “đảm bảo đảm nguồn thu” thì đã có vô vàn hòm công
đức được đặt khắp mọi nơi, các vị trí có thể bán hàng tạp nham đều được
“đấu thầu”... Và nhếch nhác, lộn xộn, mất an toàn và thẩm mỹ là điều
không tránh khỏi dù luôn có nhiều “quyết tâm”, “cố gắng” để “khắc phục”
(!).
Xã hội hóa hay thương mại hóa?
Khái
niệm xã hội hóa lễ - hội có thể hiểu là việc huy động, tăng cường, mở
rộng sự tham gia của nhiều tổ chức, của cộng đồng, của cá nhân trong
những hoạt động đa dạng liên quan đến lễ hội. Xã hội hóa có thể có (hoặc
không) thu tiền nhưng điều quan trọng là: Lợi nhuận không phải là mục
đích tối cao.
Không
phải những người chịu trách nhiệm không nhận ra những bất cập diễn ra
trong các lễ hội hiện nay nhưng nó cứ diễn ra. Câu trả lời có lẽ nằm ở
mặt khác của vấn đề. Đã tổ chức lễ hội, nhà tổ chức nào cũng muốn càng
đông người dự càng tốt. Lượng người đến đông gắn liền với “lượng thu”,
gắn liền với lợi nhuận từ lễ hội sẽ tăng lên. Đây là nguồn cám dỗ khó
cưỡng lại với nhiều người “làm” lễ hội. Họ bất chấp sức chứa của không
gian diễn ra lễ hội, bất chấp khả năng đáp ứng của cơ sở hạ tầng dịch
vụ, không tính đến năng lực điều hành yếu kém của những người tổ chức
không chuyên nghiệp... tất cả chỉ để thu lợi dưới một danh nghĩa màu mè.
Khái niệm đã bị đánh tráo. Cụm từ thường được những người có trách
nhiệm nhắc lại nhiều lần khi tổ chức lễ hội là “xã hội hóa lễ hội” nhưng
thực ra họ đã “thương mại hóa lễ hội” một cách không thương tiếc.
Các
lễ hội truyền thống nằm trong khái niệm văn hóa phi vật thể. Những giá
trị lịch sử - văn hóa của lễ hội cần được bảo vệ trong (và bởi) cộng
đồng. Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003) định
nghĩa và khuyến cáo: “Bảo vệ” là: Một tập hợp các biện pháp có mục tiêu
nhằm: nhận diện; tư liệu hóa; nghiên cứu; phục hồi; bảo tồn; củng cố,
truyền dạy và phát huy cũng như làm sống lại mọi khía cạnh đa dạng của
di sản. Di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Nó được các cộng đồng, các nhóm xã hội không ngừng tái tạo
và hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục.
Để
bảo vệ di sản văn hóa một cách bền vững, cộng đồng chủ thể văn hóa phải
giữ vai trò quyết định. Cộng đồng vừa là chủ thể sáng tạo vừa là người
hưởng thụ (và hưởng lợi) các sinh hoạt văn hóa đó. Di sản văn hóa phải
được bảo tồn tại không gian văn hóa nơi nó đã được sáng tạo ra, đồng
thời kết hợp hài hòa giữa việc bảo tồn những yếu tố truyền thống với sự
biến đổi thích nghi cần thiết.
Việc
phục dựng hay tổ chức lễ hội phải được “xã hội hóa” chứ không phải
“thương mại hóa”. Phục dựng lễ hội để tăng thêm sự hiểu biết của công
chúng về quá khứ của dân tộc, hơn nữa, còn giúp quảng bá hình ảnh văn
hóa của đất nước. Điều này nhiều nước đã làm và nhiều lễ hội phục dựng
đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hội Gióng của Việt Nam là một trong số đó. Cùng với Hội Gióng, một số lễ
hội đã được Viện Văn hóa nghệ thuật (Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch)
phục dựng gần đây theo tinh thần đó có thể coi là những thành công hiếm
hoi.
Theo: TTXVN