Mọi
bận về quê, tôi thường quen men theo con đường ven làng, vòng vèo, xa
thêm nhưng tránh được những chiếc xe tải nhỏ, xe cải tiến và xe máy lặc
lè chở sa-lông, giường, tủ ngược xuôi, bịt kín mọi đường ngang, ngõ nhỏ
trong làng. Thời chiến tranh, người làng tôi lặn lội khắp ngõ hẻm oằn
lưng gánh gạo, gò lưng đạp xe chở rau quả, mòn gót trên vỉa hè, đường
nhựa bán đủ thứ. Ngày đông tháng giá, đêm khuya rét mướt thấu xương,
phong phanh manh áo, khản giọng bán bánh khúc, ngô, khoai nướng. Nghe
tiếng rao văng vẳng ngoài đường, trong ngõ hẻm là nhận ra ngay người
làng mình. Ngót hai chục năm trước, khi qua những chợ lao động khắp Hà
Nội, vẫn nhận ra những bộ mặt nhăn nhúm với giọng quê đặc sệt vùng Kẻ
Nưa không thể trộn lẫn. Hình ảnh người quê tôi phờ phạc kiếm miếng cơm
manh áo hình như có mặt ở mọi nơi. Thoắt có tiếng gọi, nháo nhào lao vào
xúc phế thải, gạch ngói, moi cống rãnh. Nhặt nhạnh, bòn mót từng đồng,
mang về nuôi đàn con nheo nhóc. Mới đây mà tất cả đã trở thành quá khứ
không thể nhận ra. Cả làng đã biến thành một xưởng chế biến, gia công đồ
gỗ nức tiếng gần xa. Đường làng bê-tông hóa tới tận ngõ, cổng nhà. Hai
bên đường san sát cửa hàng, cửa hiệu. Thành phố có thứ gì, ở đây có thứ
đó. Sầm uất, huyên náo, tất bật bán buôn. Trai gái làng cũng tóc nhuộm
đủ mọi mầu chói mắt. Cũng phải thôi, làng tôi có cách Hà Nội mấy đâu.
Nhất là từ khi đại lộ hiện đại nhất cả nước đã vắt qua ngay sát rìa
làng, khoảng cách chênh lệch cả về không gian và văn hóa dường như kéo
xích gần lại.
Không còn thấy đâu nữa, ngay trong mỗi nếp nhà, nếp
làng và cả trong nếp nghĩ, nếp sống... Lòng vòng, ngoắt ngoéo qua mấy
con ngõ suýt nhầm đường, quên nhà, phải hỏi mãi, rốt cuộc tôi cũng tìm
được nhà bà cô họ xa. Có lẽ bà là người duy nhất mà tôi còn nhớ và bà
còn nhận ra. Những tiếng đục đẽo chát chúa, những tiếng cưa máy đinh
tai, nhức óc ngoài kia dường như không thể lọt được tận góc sâu khuất
căn nhà lợp ngói ta gần như độc nhất còn sót lại giữa bốn bề nhà hộp,
nhà mái bằng ngất ngưởng che lấp. Nhẩm tính, có lẽ bà đã sang tuổi tám
mươi có lẻ. Tóc trắng xóa, gầy tong teo, da đồi mồi, riêng đôi mắt thì
vẫn sáng tinh anh lạ thường. Nụ cười móm mém nhưng vẫn phảng phất nét
giễu cợt, có phần chua cay như hồi nào. Tôi có cảm giác bà gần như không
già hơn được, không gì che giấu được đôi mắt nhìn đời thấu suốt của bà.
Một bà già đặc nông dân, văn hóa nhì nhằng, họa hoằn mới ra Thủ đô,
nhưng hầu như chẳng có chuyện gì qua được mắt bà. Nheo mắt nhìn qua
những món quà tôi mang về, bà nói chẳng úp mở, mấy thứ này chắc ở thành
phố trẻ con cũng không động đến. Với nhà quê, thế là quý rồi. Anh chị
chắc đã quên quê cha đất Tổ. Có đáo qua chỉ cốt thắp dăm nén hương, thế
là xong bổn phận. Tôi đắng miệng, chẳng dám nói lại nửa lời.
Thực
lòng, như một cái cây non đã nhổ bật cả gốc rễ, tôi cũng như nhiều người
cùng trang lứa được bứng lên trồng ở Hà Nội, nên những ký ức, kỷ niệm
của một thời non nớt, nhỏ dại chưa đủ thấm ngấm vào tâm trí. Rễ chưa kịp
ăn sâu vào đất, chưa ngấm nắng mưa thì đã phải bén đất mới. Chưa kịp
nhớ thì đã quên. Vả lại, anh em, họ hàng cũng không mấy người bấu víu ở
làng quê, nên sợi dây huyết thống hầu như đã đứt từ lâu. Có chăng, là
những ngày tháng sơ tán thì cũng chỉ năm thì mười họa rẽ về thăm mẹ và
mấy đứa cháu nhỏ. Hết thời bom đạn coi như không cớ gì buộc phải về quê,
không còn vương vấn, bận bịu trong lòng. Giờ có phải nghe những lời
trách móc hay dằn dỗi của bà cô, tôi chỉ biết im lặng như một sự nhận
lỗi muộn màng. Giọng bà y như ngày nào, nhấm nhẳng, day dứt, vừa xót xa,
vừa ra chiều buồn tủi. Mặt mũi làng mình nay đã sáng sủa hơn cái thời
chiến tranh nhưng chắc anh chị vẫn ngại về, đúng không? Đường làng, ngõ
xóm không còn bùn lầy, nước đọng. Nước máy đã vào tận nhà, chẳng phải
dùng nước ao, nước giếng. Cái cảnh "chân đất mắt toét" ngày xưa đã hết
rồi. Nhưng mà, đồng ruộng còn được bao nhiêu đâu, người ta bán gần hết
mà sắm sửa, xây nhà, mở xưởng làm đồ gỗ. Chiều nay, anh có quá bộ ra
ngoài ruộng là nhìn thấy ngay. Người sống giành giật cả đất cát của
người chết. Nhà cửa lấn ra sát tận nghĩa trang. Mấy năm trước, chẳng
hiểu người từ đâu đổ về đây đông thế! Họ xốc vào tận trong nhà săn hỏi
mua đất. Nghe dân làng kháo nhau rằng đất lên cơn sốt. Từ thuở cha sinh
mẹ đẻ mới nghe nói "sốt đất". Đời thuở nào lại đem bán cả đất hương hỏa
đi để ăn, để sắm sửa...
Chuyện bà kể thì tôi đã tận mắt thấy. Mỗi
năm chỉ một lần về thăm mộ tổ tiên, là lại thấy nhà xưởng gặm nhấm dần
đồng ruộng. Gió đồng bị chặn lại, tù túng, bức bối và ngột ngạt. Dù cố
len lách qua những bức tường chật hẹp cũng tuyệt nhiên không nhận ra
hương đồng, gió nội. Ngay cả con đường đất vốn rộng thênh thang giờ đây
hai xe máy phải né nhường nhau. Ngôi đền làng có bóng si trùm mát âm u,
tĩnh mịch bỗng trở nên rúm ró, co ro. Gạt những chiếc lá si rụng và
những quả chín vàng trên phiến đá đen bóng loáng, ông từ thở dài bảo,
nay mai không biết trông vào cái gì mà sống? Cả một cánh đồng thênh
thang, bát ngát, ngoảnh đi ngoảnh lại có dăm năm, chỉ còn như những manh
chiếu. Ngày trước, bán thửa ruộng cà chua hay khoai tây, tằn tiện cũng
đủ sống. Nay, một xe thồ rau chất ngất, giỏi lắm mới mua nổi vài cân
gạo. Hai sọt cà chua bán như cho mà cũng chẳng mua được cái áo khoác dày
dặn. Ngày trước, còn có con cá, con tôm nuôi dưới ao chuôm, giờ thì san
lấp kín mít. Làng ta còn phúc chán, còn giữ được ít đất trồng lúa,
trồng màu chứ nhiều làng quanh đây, người ta bán thốc bán tháo đất, ôm
lấy bọc tiền. Tưởng là to, là nhiều, nhưng có thấm tháp gì đâu. Giỏi
giang thì xây được cái nhà, nếu không chỉ sắm nổi xe máy, tủ lạnh, rồi
"miệng ăn núi lở". "Tiền vào nhà khó"... chẳng có sai đâu!
Nhặt
mấy quả si chín sậm như sim, tôi ngắt lời ông từ, làng mình có nghề mộc
giàu lên trông thấy cần gì đất, việc gì phải chân lấm tay bùn, đầu tắt
mặt tối cho khổ. Đấy chỉ là ông nhìn thoáng qua bên ngoài những cửa
hàng, xưởng đóng đồ, ông từ sẵng giọng. Đâu phải dễ. Phải đổ cả đống
tiền mới mở được xưởng. Rồi tiền mua gỗ, nhất là phải có nghề, giỏi
nghề. Có phải ai muốn làm giàu là được đâu. Chỉ mong đủ ăn đủ mặc là tốt
rồi. Đằng sau những cửa hàng chất đầy sa-lông, giường, tủ, bàn ghế,
nhiều nhà phải đi làm thuê cho họ kiếm miếng ăn, nhiều lúc nghĩ mà tủi.
Giá mà còn đất như ngày xưa, vất vả một chút, thức khuya dậy sớm, nhưng
mình làm mình ăn, chả phải ngửa tay xin ai từng đồng. Chỉ có bọn trẻ con
nghĩ là thấy sướng thôi. Tay chân chẳng phải lấm láp phân, tro, bùn
đất. Tối tối lại cà-phê, ka-ra-ô-kê, rồi trò chơi điện tử thâu đêm. Học
hành thì nhì nhằng, cốt nhận được mặt chữ. Mà nghề ngỗng có đâu vào đâu.
Không nhìn tôi, ông lão ngó ra xa, buông một câu vừa như than, vừa như
trách: Mai này chúng sẽ sống ra sao, mai này quê mình có còn là làng quê
nữa không?
Câu hỏi của ông lẫn trong tiếng thở dài giống như câu
hỏi của bà cô tôi vậy. Hỏi mà như không phải để nghe câu trả lời của một
kẻ chẳng còn gì ràng buộc với quê mình. Như người biết lỗi và nhận lỗi,
tôi lặng thinh, nghe thấy cả tiếng quả si chín già rơi nhẹ trên phiến
đá mát lạnh. Hình như trong lùm cây um tùm, che kín ngôi đền, có tiếng
chim ríu ran chọn quả. Thi thoảng lại có vài trái rơi rớt. Tiếc đến xót
xa tiếng chim thưa vắng dần trên ngọn cây, bởi tiếng máy cưa xẻ gỗ ré
lên cắt đứt không gian bình yên. Mùi mạt cưa ngâm trong nước thải chảy
tràn lan, dâng lên chua lòm, nhấn chìm mùi đồng ruộng, mùi cỏ non bật nở
rạo rực trên những vạt đất hiếm hoi còn sót lại. Quê nhà trong tôi đã
xa mờ dần, hay chính tự nó xóa mờ dần?