GS Ngô Đức Thịnh:
Tìm đến giá trị đích thực Đạo Mẫu
(Ngày đăng: 10/03/2014 Lượt xem: 709)
Đạo thờ Mẹ đã có từ lâu trong lịch sử tín ngưỡng Việt Nam.
Nhiều thập niên qua, do một số lý do,
đặc biệt là hiện tượng lên đồng nhuốm màu mê tín, làm sai lệch chân giá
tín ngưỡng lành mạnh, Đạo Mẫu đã không được tôn trọng đúng với giá trị
văn hóa tâm linh của nó. Nhưng cũng trong thời gian đó, nhiề̀u nhà văn
hóa dân gian đã nghiên cứu có hệ thống nguồn cội tín ngưỡng, nghi lễ của
Đạo Mẫu.
Trong số đó phải kể đến tên tuổi GS.TS Ngô Đức Thịnh,
người tâm huyết dành cả cuộc đời hướng đến tinh thần bảo tồn giá trị văn
hóa đặc sắc của dân tộc. Ông để lại dấu ấn trong nhiều tác phẩm, đặc
biệt là công trình nghiên cứu Đạo Mẫu. Cuốn sách xuất bản năm 1994, được
đánh giá cao không chỉ với giới nghiên cứu văn hóa - tín ngưỡng trong
nước mà còn được UNESCO coi là cơ sở để tìm hiểu Đạo Mẫu, cũng như tín
ngưỡng, lễ hội dân gian Việt Nam và phương Đông. Công trình của ông trở
thành một hiện tượng trong số những sách nghiên cứu về văn hóa dân tộc.
Từ đó tới nay GS tiếp tục nghiên cứu, tìm giá trị tinh túy nhất của Đạo
Mẫu – Chầu văn cùng lễ hội được diễn ra trên khắp đất nước. Tâm thức
người Việt qua nhiều thế kỷ tồn tại được gửi gắm trong tín ngưỡng dân
gian đặc sắc, tôn vinh người Mẹ như vị Thánh chí tôn. GS suy ngẫm về Đạo
Mẫu Việt Nam:
- Việc tôn vinh, thờ phụng Mẹ có từ rất sớm, phổ
biến ở nhiều dân tộc từ đồng bằng đến miền núi, ở nông thôn và đô thị.
Nhưng không phải tất cả các thần đều được dân gian tôn vinh là “Mẹ”,
Thánh Mẫu, Quốc Mẫu, hay Vương Mẫu. Vai trò, vị trí của người phụ nữ
trong lịch sử, đời sống là vô cùng to lớn trong tâm tưởng mỗi người dân.
Hình tượng người Mẹ hiện thân cho vũ trụ, cho toàn bộ cuộc sống của thế
giới, của con người, lòng nhân hậu vị tha, che chở cho mỗi số phận con
người. Thờ Mẫu là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt,
mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin, sự che chở, nương tựa.
Được đi trên con đường mà ông sớm lựa chọn từ khi còn học phổ thông và ĐH. Ông nhớ lại thời còn cắp sách tới trường:
-
Thầy dạy Sử của chúng tôi ở trường cấp 3 Hải Hậu ngày đó là một người
uyên thâm, thầy có sức truyền cảm lạ lùng khiến tôi ham thích môn LS từ
những ngày còn ít tuổi. Khi thi đỗ vào khoa Sử trường ĐH Tổng hợp Hà
Nội, tôi mới biết trong khoa có nhiều ngành học. Tôi ghi tên vào ngành
Dân tộc học, bởi nó gắn bó mật thiết với con người, với sinh hoạt văn
hóa cộng đồng, tín ngưỡng, văn hóa - văn học dân gian, lễ hội… Tìm về
văn hóa dân tộc là đi sâu vào nguồn cội dân tộc mình. Từ văn hóa, ta soi
chiếu sâu hơn vào lịch sử hình thành dân tộc, hình thành cốt cách tinh
thần văn hóa. Những kiến thức như nguồn sáng giúp tôi thẩm định giá trị
của những sinh hoạt dân gian, cộng đồng làng xã, sự gắn kết bền vững của
cả dân tộc rộng lớn. Niềm hứng thú khoa học là động lực lớn nhất để tôi
có thể bước dần lên nấc thang tri thức và cống hiến những giá trị mà
mình tìm thấy trong kho tàng văn hóa dân tộc.
Tôi
còn may mắn hơn nữa khi được những người thầy có tầm vóc truyền thụ
kiến thức như các GS Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Đinh Xuân
Lâm… và nhìn thấy ở các GS niềm đam mê khoa học, nhân cách lớn trong
ngành học của mình. Thời còn trẻ nhiều khi tự mình băn khoăn với một câu
hỏi mà chỉ tuổi trẻ mới đặt ra: Niềm vui, hạnh phúc là gì? Đi hết cuộc
đời, liệu có tìm đến được hạnh phúc như mình khao khát. Phải vào tuổi 60
- 70, khi biết rõ giá trị của công việc đã lựa chọn, được cống hiến,
tôi mới có thể trả lời được điều ngỡ như vô cùng giản dị đó và tự mỉm
cười với mình: Tôi là người hạnh phúc trong cuộc đời này bởi tôi được
khám phá những điều mà tôi khao khát từ thuở nhỏ.
GS Ngô Đức
Thịnh vừa qua tuổi 70. Quê ông là một làng nhỏ thuộc huyện lúa Hải Hậu,
tỉnh Nam Định, một địa phương nhiều lễ hội, nhiều đền miếu, truyền
thuyết lập nên làng, nên xã, tạo dựng bờ cõi, giang sơn. Ông lớn lên
trong chuyện kể dân gian, những bậc thánh hiền, những anh hùng dựng nước
phi thường. Tốt nghiệp ĐH, ông được vào làm việc tại Viện nghiên cứu
văn hóa dân gian Việt Nam. Và cũng tại đây, năm 1994 ông được tiến cử
làm Viện trưởng cho đến năm 2005. Hiện ông là GĐ Trung tâm nghiên cứu và
bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt nam, đồng thời là Ủy viên Hội đồng Di
sản văn hóa Quốc gia, Phó Chủ tịch Hội đồng Folklore châu Á. Trong một
thời gian chưa dài nhưng GS Thịnh đã công bố hàng chục công trình nghiên
cứu, những tác phẩm, bài báo khoa học giá trị về văn hóa Việt, những
sinh hoạt cộng đồng, tục thờ phượng, tín ngưỡng, lễ hội. “Văn hóa tộc
người và văn hóa Việt Nam”, “Hát văn”, “Lên đồng, hành trình của thần
linh và thân phận”, “Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên”, “Luật tục Edê,
M’nông”… nhưng có lễ cả cuộc đời GS điều ông trăn trở và đi sâu, khám
phá những giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Đạo Mẫu. Công trình nghiên cứu
có giá trị này đã được tái bản đến lần thứ tư. Mỗi lần tái bản, lại được
bổ sung thêm nhiều bài viết giá trị từ cách tiếp cận mới, nhiều khám
phá mới ẩn chứa trong Đạo Mẫu đặc trưng tín ngưỡng Việt.
Nghi lễ
hầu đồng, một nghi thức tiêu biểu của Đạo Mẫu đang được các nhà nghiên
cứu văn hóa và dư luận quan tâm. Hiện vẫn còn nhiều cách nhìn nhận và
đánh giá khác nhau. Với tư cách là nhà nghiên cứu có uy tín, GS bày tỏ
suy nghĩ của mình:
- Nghi lễ Chầu văn hay còn gọi là hát văn Hầu
đồng là một hình thức diễn xướng dựa trên cách sử dụng âm nhạc mang màu
sắc tâm linh với lời ca trau chuốt cùng nghi lễ nghiêm trang kết hợp
với nhiều động tác múa phức tạp, ngẫu hứng. Bằng nhiều cách thể hiện
hướng đến tâm linh, con người tin rằng họ có thể giao tiếp với thần
linh. Thánh Mẫu ở đây là những nhân vật nhân đức cao dày từ trong
truyền thuyết dân gian, được dân chúng tôn thờ như Liễu Hạnh công chúa,
Mẹ Âu Cơ, và cũng rất nhiều nhân vật lịch sử có công với dân, với nước
như Bà Trưng, Bà Triệu… Nhưng có một thực tế là Hầu đồng ở nhiều nơi
đang bị lợi dụng, làm sai lệch giá trị văn hóa của Đạo Mẫu. Nghi lễ này
hướng đến thần thánh được “Mẹ” hóa: Mẹ Mặt Trời, Mẹ Trăng, Mẹ Đất, Mẹ
Nước… để cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu bình an cho con người, cầu ước
Phúc Lộc Thọ…là những ước nguyện muôn đời của con người. Đó hoàn toàn là
một tín ngưỡng mang tính nhân văn sâu sắc. Có thể do sự hiểu biết của
dân chúng và cũng có cả sự lợi dụng của một số người nhằm mưu cầu lợi
ích tầm thường trước mắt, biến nghi lễ Hầu đồng như một thứ mê tín, xa
lạ với bản chất văn hóa của một nghi lễ tôn vinh Thánh Mẫu – Người Mẹ
Lớn.
Theo: phapluatxahoi