Tượng đồng Phật hoàng Trần Nhân Tông trên Yên Tử linh thiêng,
ngày khai Hội Xuân năm Giáp Ngọ
Trần Nhân Tông là người tuổi Ngọ, miếu
hiệu Nhân Tông, sinh năm Mậu Ngọ (1258) con trưởng vua Trần Thánh Tông.
Năm đó cũng là lúc quân dân Đại Việt đang ăn mừng chiến thắng kết thúc
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Nhưng quân Nguyên
Mông vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược; vì thế có thể nói, hoàng tử Khâm ra
đời có lẽ là điềm lành báo hiệu sự xuất hiện của một người anh hùng độ
thế của dân tộc.
Năm Nhâm Ngọ (1282), vua Trần Nhân
Tông đã triệu tập hội nghị Bình Than (thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay) bàn
phương hướng kháng chiến khi quân Nguyên Mông đang chuẩn bị xâm lược
nước ta lần thứ hai. Đây là hội nghị bàn hai vấn đề cốt tử: Xác định
phương hướng chiến lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy chiến
đấu. Tại đây, vua Trần Nhân Tông đã ra quyết định sáng suốt là phong
Trần Quốc Tuấn chức Quốc công Tiết chế nắm quyền Tổng chỉ huy binh lính
nhà Trần; Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư cũng được xá tội và phong làm Phó
Đô tướng quân.
Vào năm Giáp Ngọ (1294), Trần Nhân
Tông lúc này đã là Thượng hoàng nhưng vẫn đích thân dẫn quân dẹp loạn Ai
Lao. Vốn không thích chiến tranh, nhưng vì Ai Lao đã nghe lời dụ dỗ của
nhà Nguyên quấy phá biên giới phía Tây nên buộc vua Trần Nhân Tông phải
dẫn theo những tướng giỏi đi đánh để giữ vững bờ cõi. Trong bài thơ
"Tây chinh đạo trung”, vua Trần Nhân Tông đã nói rõ mình không muốn mang
tiếng mê chinh chiến như Hán Vũ Đế…
Cũng trong năm đó, vào khoảng tháng 7,
lần đầu tiên thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu Phật ở Vũ Lâm
(Ninh Bình), sau rồi mới lên núi Yên Tử tu hành, lập ra Thiền phái Trúc
lâm.
Mùa hạ năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân
Tông đứng ra tổ chức hôn lễ cho Công chúa Huyền Trân và vua Chiêm Thành
là Chế Mân. Vua Chiêm đã dâng Châu Ô và Châu Rí cho Đại Việt làm sính lễ
cầu hôn. Trần Nhân Tông đã có công giúp cho nước Đại Việt mở rộng bờ
cõi về phương Nam (đến Thuận Hoá tức Thừa Thiên - Huế ngày nay), góp
phần thắt chặt tình bang giao giữa hai nước Đại Việt – Chiêm Thành.
Sử sách còn ghi, vào ngày 18/4/1288,
chín ngày sau chiến thắng Bạch Ðằng lịch sử, Thượng hoàng Trần Thánh
Tông và vua Trần Nhân Tông đã về lại Long Hưng (Thái Bình) đem theo tù
binh Nguyên bị bắt trong trận Bạch Ðằng làm lễ hiến tiệp ở lăng mộ Trần
Thái Tông. Nhìn những ngựa đá lấm bùn bên lăng mộ người xưa, Trần Nhân
Tông, cảm khái đọc hai câu thơ:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch nghĩa:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
Hai câu thơ trên đã tỏa sáng hào khí của dân tộc từng vượt qua mọi khó khăn thử thách để non sông đất nước luôn trường tồn.
Non sông Đại Việt vững vàng nhờ hào
khí dân tộc và thời đại đã toả sáng, kết tụ trong một nhân vật kiệt xuất
tuổi Mậu Ngọ Trần Nhân Tông. Theo: daidoanket
|