Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài có
công lớn với dân tộc đánh đuổi quân Nguyên Mông, để lại binh thư và bài
hịch nổi tiếng. Khi ngài mất, nhân dân ngưỡng mộ, tôn ngài thành Thánh
là lập đền thờ ở nhiều nơi.
Trong hành trang mở cõi vào vùng đất phương Nam của người Việt, nhân
dân đã phụng lập đền thờ ngài ở Sài Gòn, vừa tưởng nhớ công đức ngài vừa
là điểm hẹn tâm linh, chỗ dựa tinh thần, niềm tự hào dân tộc của người
Việt.
Hiển hách chiến công niềm tin bất diệt
Trong số nhiều ngôi đền thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo thì đây
là ngôi đền to nhất ở phía Nam. Đền thờ phụng Quốc Công Tiết Chế Trần
Hưng Đạo và các con của ngài cùng gia tướng, danh tướng thời Trần như:
Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão...
Theo những tài liệu về đền thì đền Đức Thánh Trần trước ở trong chùa
Vạn An nằm cạnh Hội quán do cụ Nguyễn Văn Bích xây dựng, về sau cụ Bích
hiến khu đất và ngôi đền cho Hội Bắc việt tương tế (do cụ Nguyễn Duy
Ninh làm Chánh hội trưởng từ năm 1952 đến năm 1979 cụ qua đời) và được
được xây dựng từ năm 1929 ra tọa lạc ở đường Hiền Vương, Sài Gòn, nay là
36 đường Võ Thị Sáu, quận 1, TP.HCM.
Một bậc cao niên sống gần đền cho biết: “Hồi đó, vùng Nam Bộ dân cư
còn thưa thớt, đất đai còn hoang vu, những người di dân vào đây mới nảy
sinh ý định lập đền thờ Đức Thánh Trần. Họ ra ngoài quê của cụ Trần Hưng
Đạo rước sắc phong và tượng vào Nam để thờ phụng với mong ước giáo
dưỡng tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho con cháu mai sau.
Đền Đức Thánh Trần rất thiêng, người dân khắp nơi thường đến đây cúng
viếng và cầu khấn khi gặp tai ương, bệnh tật. Từ công đức, từ cái oai
linh của những chiến công oanh liệt của vương triều Trần cùng gia tướng
và các vương tử con của Đức Thánh Trần mà tạo nên một chỗ dựa tinh
thần, chỗ dựa tâm linh cho những người Việt xa xứ đi lập nghiệp ở phương
Nam”.
Đức Thánh Trần Hưng Đạo trong đền thờ.
Năm 1957, ngôi đền được xây mới và do kiến trúc sư nổi tiếng Nguyễn
Mạnh Bảo thiết kế. Hội Bắc Việt tương tế khởi công xây dựng vào ngày
28/7/1957, hoàn thành vào ngày 11/7/1958, ngôi đền cũ bị dỡ bỏ tạo thành
sân đền rộng rãi. Đền thờ được tu bổ thêm nhiều lần, nhưng nhìn chung
cả vóc dáng lẫn đường nét căn bản của kiến trúc cũ vẫn được giữ nguyên.
Ngay đầu sân là bức tượng Trần Hưng Đạo uy nghi bằng xi măng màu vàng
đen. Đền được xây theo hình chữ "Đinh" rộng 200m2, có 3 dãy cửa liền
nhau trông ra sân.
Trong khuôn viên sân đền chiếm phần lớn diện tích, tỏa bóng mát cây
cao. Sân đền lát gạch men màu nâu thường được tổ chức đánh cờ người, võ
cổ truyền và ca hát phục vụ những ngày lễ, hội (lễ hội lớn nhất vào 20/8
Âm lịch, ngày giỗ Đức Thánh Trần). Ngay ở đầu sân, là bức tượng Trần
Hưng Đạo do nhà điêu khắc Trọng Nội đúc trông uy nghi và hài hòa với
khung cảnh khu vực đền thờ.
Phía trên ba cửa nổi bật 10 chữ Hán (phiên âm): Hiển thánh Trần triều
Hưng Đạo Đại Vương linh từ. Nghĩa là: Đền thờ của bậc hiển thánh linh
thiêng là Hưng Đạo Đại Vương họ Trần. Mặt trước cửa chính, có đôi câu
đối viết bằng chữ Hán:
Núi Vạn Kiếp không có ngọn nào là không có hơi kiếm bốc hỏa,
Sông Lục Đầu không có cơn sóng nào lại không có tiếng thu ầm vang.
Những câu đối lẫy lừng thiên hạ
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân thì câu đối này tương truyền là
của thám hoa Vũ Phạm Hàm (người làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, Hà Tây,
1864 - 1906).
Trong đại sảnh của đền cũng có nhiều đôi câu đối giàu tràng khí. Ở
trước bàn hương án có hai con nghê ngồi chầu được tạo hình độc đáo: Mỗi
con ngậm một cái xương sườn cá ông cong vút lên, dài gần 3m, tạo thành
một hình vòng cung, trông rất uy nghi. Hai bên hương án là hai hàng cờ
quạt, tàn lọng, đồ bát bửu, ngựa hồng, ngựa bạch... Phía trên và dọc
theo hai cột ở hai bên hương án cũng có hoành phi, câu đối sơn son thiếp
vàng.
Trước đây trong nội điện ở phía trong, có tượng Trần Hưng Đạo bằng
đồng, khởi công đúc từ ngày 25/10/1957 và khánh thành vào ngày 1/7/1958.
Tượng Trần Hưng Đạo được đúc ở thế ngồi trên long ỷ, tay cầm quyển binh
thư, thanh kiếm bạc dựng một bên. Nhưng nay không thấy trưng bày nữa.
Hai bên bức hoành phi trong nội điện có đôi câu đối chữ Hán:
Dòng dõi nhà vua, ngựa đá bao phen lo việc nước,
Trần Triều danh tướng, bình vàng xã tắc điện sáng ngời.
Trên nền hoành phi và câu đối là những hoa văn thường thấy ở các đền
thờ. Trên các vách cao của đền là hàng loạt những bức phù điêu sơn son
thiếp vàng, chạm trổ công phu của nhà điêu khắc Trọng Nội, diễn tả những
sự kiện lớn của lịch sử đời Trần như: Hội nghị Diên Hồng, Lời thề sông Hóa, Trận Bạch Đằng 1288.
Đền có ba cổng lớn. Cổng chính giữa chỉ mở vào những ngày rằm, ba mươi
âm lịch hằng tháng và những lễ hội lớn trong năm. Hai cổng phụ được mở
thường xuyên để đón khách tới viếng thăm hằng ngày. Trên nóc cổng chính
là hình "lưỡng long hý nguyệt" và trước cổng nổi bật 4 chữ Hán cỡ lớn
(phiên âm): Hưng Đạo Đại Vương. Ở mặt ngoài của hai cột cổng chính, có
đôi câu đối viết bằng chữ Hán (tạm dịch):
Xem sử nhà Trần nhớ mãi những chiến tích oanh liệt tích tụ lại
Vào cửa miếu, thấy ánh sáng linh thiêng tỏa rạng ra.
Mặt trong của cổng, ở trên cao có bốn chữ triện: Trần Triều Hiển Thánh
và phía dưới, trên hai cột cổng chính cũng có đôi câu đối viết bằng chữ
Hán.
Chánh điện đền thờ.
Nơi lưu giữ, giáo dục niềm tự hào dân tộc
Nơi hội tụ của lòng thành kính
Hằng năm, đền Đức thánh Trần Hưng Đạo thường tổ chức lễ
hội lớn vào đêm Giao thừa, mồng 1, 2, 3 Tết, Lễ hội mừng xuân, giỗ Tổ
Hùng Vương (mồng 10 tháng 3 Âm lịch), giỗ Đức thánh Trần Hưng Đạo (20
tháng 8 Âm lịch), ngày Thánh đản mồng 10 tháng Chạp... vào những dịp này
thường có múa lân, tế lễ cổ truyền, thi vật, võ cổ truyền... và tổ chức
hội thảo về các chiến công thời Trần. Đền thờ Đức Thánh Trần không chỉ
là nơi tôn vinh vị anh hùng mà còn là nơi giáo dục lòng yêu nước, lòng
tự
hào dân tộc cho mọi người khi viếng thăm.
|
Trong đền thờ gồm chánh điện có ảnh, tượng của Đức Thánh Trần, những
bức phù điêu mô tả cảnh chiến đấu chống quân Nguyên. Ngoài ra có những
đồ linh khí như: Trống, chiêng bằng đồng, những võ khí thời xưa gồm
thương, đao... những bức hoành phi, câu đối bằng chữ Nho nói lên công
đức của Đức Thánh Trần. Nơi chánh điện treo hai câu đối lớn:
Vạn lĩnh thị thiên thu chi linh ứng địa, phong lôi trường hưởng kiếm minh thanh,
Đằng giang vi nhị thứ chi chiến thắng trường, tang hải bất di duy thực tích.
Nghĩa là: Sông núi đất nước đáng là nơi ngàn năm thiêng liêng, sấm sét
vang mãi tiếng kiếm khua/Sông Đằng giang hai lần chiến thắng, giang sơn
đất nước không dời dấu tích đóng cọc.
Theo ban quản trị của đền, trước đây ở mé trái của đền (nhìn từ đền ra
đường Võ Thị Sáu) có một phòng trưng bày lịch sử nhà Trần, nơi đây như
một bảo tàng thu nhỏ ghi nhớ công lao và dấu ấn lịch sử của cuộc kháng
chiến ba lần đánh bại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Tuy nhiên,
hiện nay khu trưng bày này đang được sửa chữa lại.
Phòng trưng bày này trước đây trưng bày nhiều hiện vật phục chế như
cọc gỗ trên sông Bạch Đằng, mô hình cuộc chiến trên sông Bạch Đằng, ghi
dấu chiến thuật trận đánh trên sông Bạch Đằng giữa quân nhà Trần và quân
Nguyên, lịch sử nhà Trần, ảnh Hưng Đạo Vương trên thuyền chiến, thơ
vịnh Trần Hưng Đạo của Cao Bá Quát và Tịnh Lan; đặc biệt là di huấn của
Trần Hưng Đạo về tám điều tệ của đạo làm tướng, như: 1/Lòng tham không
chán; 2/Ghen người hiền, ghét người tài...
Phía sau gian giữa của phòng trưng bày là tấm bảng ghi lại lời Chủ
tịch Hồ Chí Minh về công ơn của các anh hùng dân tộc. Hồ Chủ tịch viết:
“Lịch sử nước ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại, chứng tỏ tinh thần
yêu nước của dân ta, chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang
thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta
phải ghi nhớ công lao các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu
biểu của một dân tộc anh hùng...”.
Theo: nguoiduatin